Đầu năm rắn đọc thơ Rắn đầu …

 

Đầu nám Ất tỵ, chợt nhớ đến bài thơ được cho là của ông Lê Quý Đôn làm lúc mới chỉ có bảy, tám tuổi. Xin mang ra đây để cùng thưởng thức trong lúc còn hương vị ngày xuân. Bài thơ có nhiều bản khác nhau, như những bài sau đây:

Rắn đầu rắn cổ

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ rày Châu, Lỗ chăm nghề học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

(thivien.net)

Một bản khác của bài thơ:

Rắn đầu biếng học

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha.
Thẹn đèn hổ-lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ rày Châu, Lỗ chăm nghề học,
Kẻo hổ-mang điều tiếng thế gia.

(Việt Thi, trang 75, Trần Trọng Kim)

Một bản khác nữa của bài thơ:

Tự trách mình

Chẳng phải liu-điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu chẳng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ.
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra.
Từ rầy Trâu, Lỗ chăm nghề học,
Kẻo hổ-mang điều tiếng thế-gia.

(Quốc văn trích diễm, trang 53, Dương Quảng Hàm)

Ông Dương Quảng Hàm, trong Quốc văn trích diễm, kể lại xuất xứ của bài thơ là khi ông Lê Quý Đôn được bảy, tám tuổi cởi truồng đi tắm, có một ông quan Thượng vào chơi với cụ thân sinh ông là Trung hiếu công, trông thấy ông liền hỏi thăm nhà ở đâu. Ông đứng dạng hai chân ra bảo quan Thượng rằng nếu ông quan biết ông ta đang đứng thành chữ gì thì ông sẽ chỉ nhà cho. Quan Thượng thấy thằng bé con hỗn xược, bỏ đi không thèm nói gì, Ông cười ầm lên nói rằng đó là chữ Thái mà ông quan không biết. Khi ông trở về nhà gặp quan Thượng gọi lại mắng rằng ông là thằng rắn đầu rắn cổ, phải làm một bài thơ tự trách mình để chuộc lỗi, ông vâng lời làm bài thơ trên. Giai thoại vừa kể có lẽ chỉ để đề cao tài năng của ông Lê Quý Đôn chứ thực ra thì ông quan Thượng đi thăm ông quan Công đâu giống như anh ba thợ hồ đi thăm anh tư thợ rèn ở xóm nhà lá mà phải hỏi thăm nhà cửa. Ông Thượng đi đâu cúng có tiền hô hậu ủng và dinh thự của ông Công thì ai mà không biết.

Bài thất ngôn bát cú trên tuy có nhiều phiên bản nhưng xét ra ý nghĩa thì không có gì khác nhau, Mỗi câu thơ đều có tên rắn. Đặc biệt con liu điu là rắn có bốn chân. Nếu mà nó cụt đuôi thì trông giống con rắn mối. Xét theo niêm luật thơ Đường thì chắc bài thơ trên được làm bằng chữ Nôm nên mới có thể chuyển sang mẫu tự La Tinh một cách dễ dàng. Điều đáng chú ý là bài thơ có nhiều tựa đề và hai chữ Trâu, Lỗ hay Châu, Lỗ trong câu thơ thứ bảy.

Ông Dương Quảng Hàm giải thích Trâu là quê hương của ông Mạnh Tử và Lỗ là quê hương của ông Khổng Tử. Trâu, Lỗ ý nói học trò của Khổng Mạnh. Ông Trần Trọng Kim cũng giải thích như ông Dương Quảng Hàm nhưng viết chữ Châu thay vì Trâu. Câu hỏi đưa ra là Châu hay Trâu chữ nào mới đúng? Câu hỏi này chỉ có thể được trả lời theo địa lý Trung Hoa. Wikipedia giải thích nước Trâu nay là thành phố Trâu Thành thuộc tỉnh Sơn Đông bên Trung Quốc, Trước khi mang tên Trâu thì nước này mang tên Chu. Bách độ bách khoa (Baidu) tự điển giải thích nước Chu còn được gọi là nước Chu Lâu , nước Trâu hay nước Chu Tử, là một nước chư hầu vào thời Xuân thu, Chiến quốc. Gọi tên Chu Tử vì nước này thuộc về gia tộc họ Tào được phong tước Tử. Riêng về chữ Chu, chữ này âm Bắc Kinh đọc là Zhu. Âm Hán Việt là Chu và chữ Nôm có hai âm là Chu hay Châu. Vì ông Trần Trọng Kim viết chữ Châu nên chắc bài thơ được viết bằng chữ Nôm. Như thế thì cả hai ông Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đều đúng, có điều hai vị này đọc hai tư liệu khác nhau. Còn con rắn trong câu thơ thứ bảy là con rắn gì? Một số tác giả trên WEB nói đó là con rắn Hổ Trâu còn gọi là con Ráo Trâu cùng loại với rắn ráo nhưng to hơn nhiều. Hiện nay tại Viêt Nam có nhiều trại nuôi rắn Ráo Trâu. Chắc để làm thực phẩm. Nhưng với Châu, Lỗ thì có con rắn nào mang tên Hổ Châu không? Điều này khó có câu trả lời vì ông Lê Quý Đôn sống vào thế kỷ 18 nên tiếng Việt so với bây giờ cũng có phần khác biệt.

Về hai chữ Khổng Mạnh, Tiền nhân ta theo Nho học tất nhiên đã để lại cho hậu sinh ít nhiều tư duy Khổng Mạnh. Nhưng thực tế thì chúng ta ngày nay chỉ hiểu lơ mơ về Tam cương, Ngũ thường, Tứ đức, Tam tòng, Tiên học lễ, Hậu học văn ,,, và cho đó là truyền thống, là gia bảo phải duy trì nó. Ý kiến này được cho là do Khổng Tử đề ra, nay còn nhiểu người bảo vệ nó nhưng cũng có người bác bỏ như ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long đã viết trong Mười điều Tâm niệm.

Còn về ông Mạnh Tử (372-289 TCN), được người xưa tôn là á thánh đứng sau thánh Khổng Tử (551-479 TCN). Mạnh Tử là học trò của ông Tử Tư, cháu đích tôn của Khổng Tử. Ông tuy là môn đệ Khổng Tử nhưng đưa ra nhiều tư tưởng rắt tiến bộ, có thể nói rất hợp với thời bây giờ mà nhiều nơi trên thế giới chưa áp dụng đến. Có lẽ vì thế mà học thuyết của ông đề ra không được trọng dụng nên cuối cùng ông về nhà dạy học, viết sách rồi dần dần bị quên lãng. Ông cho rằng con người sinh ra luôn có tính thiện (Nhân chi sơ tính bản thiện) nhưng sau đó nếu bị môi trường xấu lôi cuốn sẽ trở thành xấu. Theo ông thì đời sống vật chất ổn định sẽ đem lại anh ninh xã hội. Vì thể ông cho rằng bổn phận của nhà cẩm quyền là phải làm sao cho người dân có công ăn việc làm ổn định. Ông coi trọng người dân hơn vua chúa (Dân vi quý, Quân vi khinh) nhưng ông cho rằng người dân không được làm cách mạng, đó là công việc của người hiền. Ông bảo nhà cầm quyền phải biết kính trọng các hiển triết như bậc thầy và người hiền phải giữ địa vị lãnh đạo xã hội. Ông vẫn giữ tư tưởng tôn ti trật tự của Khổng giáo nhưng đề ra chủ nghĩa phân lập quyền hành pháp và tư pháp. Về pháp luật mọi người phải được bình đẳng, thời ông giới quý tộc phạm tội không bị xét xử. Còn về tài đức thì có sự khác biệt giữa con người với nhau.

Paris 10/02/2025

Phạm Văn Vĩnh

You may also like...

1 Response

  1. Tri Nguyen says:

    Hay! Cảm ơn Vĩnh

Leave a Reply