Đọc truyện ngắn “Đêm sáng trăng” của Thạch Lam

 

 

Vào thập niên 30 và đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, tác phẩm của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn đă đánh dấu một kỷ nguyên mới cho nền văn học Việt Nam, biến chuyển từ văn chương cổ điển sang t́nh cảm lăng mạn, lư tưởng và xă hội. Thạch Lam là một trong những nhà văn viết truyện ngắn hay trong thời kỳ này. T́nh cờ được đọc lại “Đêm sáng trăng” của Thạch Lam, người viết xin được chia sẻ cùng độc giả vài cảm nghĩ về truyện ngắn này.

 

Trước hết, phải ca ngợi rằng nghệ thuật tả cảnh trong “Đêm sáng trăng” của Thạch Lam quả là độc đáo. Tác giả mở đầu bằng một đoạn tả cảnh trăng lên với những chữ dùng óng chuốt, mượt mà để tả ánh trăng từ khi trời vừa chập choạng tối cho đến lúc “ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa.” Ánh trăng của Thạch Lam như một gịng sữa ngọt, “chảy” từ lưng chừng trời xuống tràn ngập thế gian. Ánh trăng mênh mông mà dịu dàng thân mật quá! Chỉ trong hai đoạn văn ngắn mở đầu, tác giả đă cho thấy một nghệ thuật tả cảnh bậc thầy trong văn chương Việt Nam thời tiền chiến. Hơn nữa, đêm trăng của Thạch Lam là một đêm trăng thật cổ điển, có tiếng chuông chùa, có cành lá tre “sắc và đen như mực vắt qua mặt trăng, như một bức tranh Tàu”, có “rêu ở tấm đá bờ ao gần đó bốc lên hơi lạnh”… mà lại rất Việt Nam với những rặng tre đen của làng xa, với chiếc chơng tre kê trong bóng tối bên bờ ao, trong khu vườn nhỏ.

Tất cả những đoạn tả cảnh và tả t́nh nhẹ nhàng ở phần đầu trong “Đêm sáng trăng” đều thật hay và sống động, như đoạn tả Mai đi đến chỗ hẹn với Tuân sau đây:

Bóng cây râm mát quá, thân mật và kín đáo. Tim chàng đập mạnh lên. Tuân với tay, và lắng tai nghe: như có tiếng lá động, tiếng chân đi nhẹ nhàng và nhỏ nhắn. Một cành cây cong xuống rồi vụt lên, lá rung động lấp lánh ánh trăng như ánh nước.

Khóm hoa đơn rẽ ra, một bóng trắng mơ hồ tiến lại. Tuân giơ tay ôm lấy, cảm động th́ thầm:

- Em...

Nàng không trả lời, yên lặng ngả vào ḷng chàng.”

Thạch Lam được biết đến nhiều qua các truyện ngắn thiên về tâm lư xă hội của ông, đặc biệt là truyện ngắn “Đói”.  “Đêm sáng trăng” không hẳn là một truyện về tâm lư xă hội, mà có thể coi là một truyện t́nh cảm lăng mạn nhưng lại bày tỏ một khuynh hướng táo bạo của t́nh yêu nam nữ, như một sự đả phá những khuôn phép cổ điển của xă hội thời đó. Tuy nhiên, cách tả t́nh mới mẻ, mănh liệt và táo bạo của ông ở phần giữa cũng như phần cuối truyện đă rất tương phản với cách tả t́nh và tả cảnh cổ điển, êm đềm dịu ngọt ở phần mở đầu. Sự tương phản đó đáng cho người đọc suy nghĩ.

Chúng ta hăy thử nh́n qua bố cục và cốt truyện của tác phẩm này. Nhân vật chính là đôi thanh niên nam nữ, hàng xóm của nhau từ thủa nhỏ. Năm 13 tuổi, Tuân lên tỉnh học và không c̣n nhớ ǵ nhiều đến Mai, cô bạn hàng xóm nhỏ hơn ḿnh 2 tuổi ở quê nhà. Bỗng một hôm, t́nh cờ nghe mẹ nói Mai sắp lấy chồng, Tuân liền theo mẹ về quê, hẹn ḥ gặp Mai trong khu vườn năm xưa. Đôi thanh thiếu niên lần đầu tiên gần gũi đă có những bộc lộ ái t́nh táo bạo và cuồng nhiệt. Họ gặp nhau như thế mỗi đêm, liền trong một tuần trăng sáng. Rồi khi Tuân bỏ đi lên tỉnh, Mai đau buồn nửa đêm lẻn vào khu vườn kỷ niệm, nằm chết bên bờ ao ḥ hẹn… Không gian là những đêm sáng trăng trong khu vuờn của một nhà khá giả ở thôn quê, có cây xanh phủ kín, có tường hoa, cây lựu, có bờ ao, bụi tre, tấm đá và con đường ngập ánh trăng. Tưởng không c̣n nơi nào lư tưởng hơn cho những kẻ yêu nhau và những mối t́nh thơ mộng. Về thời gian, tác giả đă bắt đầu bằng một quá khứ rất gần, ba ngày trước khi Mai chết (xem phân đoạn thứ năm, bắt đầu bằng “Tối hôm nay là tối cuối cùng” và phân đoạn cuối khi Mai chết “Tuân đi đă ba ngày rồi.”) Sau đó, tác giả đă đi lùi lại quá khứ rất xa, từ khi Tuân và Mai c̣n là những đứa trẻ nhỏ, cho đến khi Tuân lên tỉnh học năm 13 tuổi và không nhớ ǵ nhiều về Mai nữa (“Người con gái nghiêng nón che cái miệng cười chỉ c̣n để trong tâm trí Tuân một h́nh ảnh mờ mờ, xa xôi như làng mạc thôn quê ở chân trời sau sương chiều”.)

Thế mà, đùng một cái, vừa nghe mẹ chàng vô t́nh kể rằng cô Mai hàng xóm sắp đi lấy chồng là Tuân bỏ cả đi chơi Sầm Sơn với bạn gái để về quê! Rơ ràng là Tuân không yêu ǵ Mai khi đó. Có chăng là chỉ một chút kỷ niệm mơ hồ thời thơ ấu c̣n sót lại. Thế mà ngay đêm ấy khi về quê, ngồi dưới ánh sáng trăng trong khu vườn cũ, “Tuân thấy bóng Mai mặc áo trắng thấp thoáng ngoài sân. Ḷng chàng tự nhiên cảm động và hồi hộp, như đợi chờ một sự sung sướng không bờ bến”. Thế là thế nào? Bao nhiêu năm Tuân chẳng nhớ ǵ đến cô hàng xóm năm xưa, tự nhiên nghe cô ấy sắp đi lấy chồng lại ṃ về kiếm cách tán tỉnh và “cảm động và hồi hộp” đến thế! Anh chàng học tṛ này, mới 18 tuổi mà đă có cái tâm lư trai lơ của một người đàn ông già giặn, chỉ muốn hái hoa khi thấy hoa sắp vào tay người khác! Không những thế, Tuân lại c̣n dám cả quyết “Không biết từ đâu, chàng chắc rằng đêm nay, chỉ đêm nay, Mai sẽ yêu chàng”. Đó là cái tâm lư háo thắng muốn chinh phục ái t́nh, chứ không phải là t́nh yêu chân thật. Hơn nữa, ngay khi đó, tác giả đă cho Mai, một thiếu nữ 16 tuổi chứ không c̣n là đứa trẻ ngày xưa chui qua hàng rào hàng xóm nữa, đột nhiên đêm nay, khi sắp đi lấy chồng lại dám “trong bóng tối, Mai đă chờ sẵn đấy rồi. Chàng giơ tay đón nàng vào ḷng” và ngay khi trông thấy Tuân, “Lời nói đầu của đôi trẻ là một cái hôn đằm thắm và yên lặng.” Cái cách bày tỏ t́nh cảm của một đôi trẻ Việt Nam lần đầu tiên gần gũi nhau vào cuối thập niên 1930 như trên của Thạch Lam thật đă đi quá xa trong tưởng tượng, nếu không muốn nói là quá đáng. Ông đă biến Tuân và Mai thành những Romeo và Juliet của Shakespeare và khu vườn nhỏ bên bờ ao với chiếc chơng kê trong bóng tối thành những lâu đài của hai gịng họ Montague và Capulet có mối thù truyền kiếp, nơi Romeo và Juliet gặp nhau đă lao vào nhau như rơm với lửa! Bóng trăng êm đềm của cảnh đồng quê Việt Nam được tả thật tuyệt vời trong phần mở đầu đă bị biến đổi đột ngột và sỗ sàng. Thay vào đó là một cái ǵ gượng gạo không thật, một sự tỏ lộ t́nh yêu không thể xảy ra và không phù hợp với tâm lư nhân vật cũng như không gian và thời gian. Mới vài năm trước, khi Tuân về thăm nhà gặp Mai ngoài đồng, Tuân c̣n “dừng lại, không biết nói ǵ” và t́nh cảm Tuân vẫn c̣n vô cùng nguyên tiêu, thơ mộng, nhẹ nhàng, nhút nhát, dễ thương và cổ điển, như khi “Tuân nh́n theo nàng bước trong ánh nắng, trong ḷng xúc động bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chiều ấy Tuân ra vườn ngồi trên bực đá bên bờ ao, nh́n cái lối đi cũ của Mai qua hàng rào, bây giờ cây đă lấp cao rồi.” Tuy rằng trước đó tác giả đă cố gắng trong một câu ngắn muốn biến Tuân thành một chàng thanh niên đợt sống mới của tỉnh thành theo tây học (“Gần qua kỳ nghỉ hè, Tuân sửa soạn vào Sầm Sơn tắm bể với vài người bạn, cả mấy cô bạn gái xinh đẹp và táo bạo cùng học một trường với chàng”), nhưng sự chuyển tiếp đột ngột ấy đă không được tác giả diễn tả một cách khéo léo đủ để cho người đọc tha thứ được cái anh chàng Tuân học đ̣i hư hỏng ái t́nh này, và nhất là không tả đúng tâm lư của nhân vật chính. Hơn nữa, để tăng thêm phần táo bạo cho câu chuyện và cho cá tính của nhân vật, ngay từ đầu tác giả đă cố ư dùng những chữ bạo và thô như “đống tóc”, “một cái hôn say mê và đau đớn”, hay “ưỡn xuống” (“Tuân cúi mặt vào đống tóc thơm, ngạt ngào một mùi hương quen mến”, hay “hai hàm răng chạm vào nhau trong một cái hôn say mê và đau đớn.”, và “Chàng lại đỡ lấy nàng, ưỡn xuống để ánh trăng soi tỏ mắt.”). Đọc những câu này ta có cảm tưởng là hai người, hay ít ra là Tuân là một kẻ không có tâm lư thăng bằng, thích “thú đau thương”, đến độ gần như là một kẻ bạo dục (sadomasochist)! Trong khi đó, Mai, một thiếu nữ 16, cũng sung sướng chịu đau đớn ngay từ nụ hôn đầu trong một cảm giác “sadomaso” không kém! (“Đôi môi nàng chảy máu và đau đớn; Mai sung sướng chịu đau, gửi thác trong cánh tay Tuân tất cả thân thể và tâm hồn trong sạch của nàng.”) Tất cả những cái dịu dàng thơ mộng của cảnh trăng lên xuyên qua cành lá cạnh bờ ao mà tác giả đă tả một cách thật tuyệt vời trong đoạn đầu đă hoàn toàn biến mất.

Cuối cùng, để tăng thêm phần bi thảm và kịch tính cho câu chuyện, sau khi Tuân bỏ đi, tác giả đă cho Mai nằm chết bên bờ ao sau một đêm trăng mờ, “mái tóc xổ ra vương lẫn với cánh bèo”. Không thấy nói Mai tự vẫn bằng thuốc độc, cũng không chết ch́m bởi v́ “nàng nằm chết dưới vệ ao” (nếu nàng nhảy xuống ao tự tử th́ phải nổi lềnh bềnh, chứ không nằm chết bên bờ ao được). Làm thế nào mà một thiếu nữ khỏe mạnh có thể chết dễ dàng chỉ sau một đêm không ngủ ngồi dưới bóng trăng thương nhớ người yêu? Đây lại là một sự không tưởng mà tác giả đă thêm thắt quá đáng trong ư muốn biến câu chuyện thành một vở bi kịch, nếu không là Shakespeare th́ cũng là Liêu trai chí dị.

Không ai có thể phủ nhận văn tài của các nhà văn tiên phong trong việc đưa văn chương Việt Nam từ cổ điển bước qua xă hội, lư tưởng và lăng mạn như những nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn. Tuy nhiên, nhiều nhà phê b́nh đă cho rằng nhiều tác phẩm của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn không có bố cục chặt chẽ và cốt truyện thường quá lư tuởng không phù hợp thích đáng với cách hành văn trong sáng và nhất là thiếu tính cách thuyết phục. Như trong truyện này, Thạch Lam đă đi quá xa như một “bước nhảy vọt” không khéo léo khi diễn tả sự bộc lộ ái t́nh ồn ào dữ dội của đôi thanh thiếu niên Việt Nam vào cuối thập niên ba mươi của thế kỷ trước: Mai, một cô gái nông thôn mới 16 tuổi, và Tuân, một anh học tṛ mới vừa chập chững bước vào tuổi trưởng thành. Điều đó đă khiến cho người đọc ngày nay dễ dàng nhận ra cái gượng ép trong sự cố gắng của tác giả là phải làm sao cho tác phẩm biểu lộ được một cái ǵ mới mẻ, tây phương, lư tưởng để đả phá cái cổ hủ, xưa cũ, ước lệ cho đúng với chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn thời ấy. Tiếc rằng ở đây Thạch Lam đă không có cái khéo léo tế nhị và hợp t́nh hợp lư, lăng mạn một cách vừa phải của một Khái Hưng trong “Hồn bướm mơ tiên, một Nhất Linh trong “Lạnh lùng” hay ngay cả trong “Đoạn tuyệt”. Thạch Lam đă cố tả cảnh đôi trai gái mới lớn yêu cuồng sống vội trong một thứ t́nh yêu không có ngày mai (nếu c̣n có thể gọi đó là t́nh yêu chứ không phải là xác dục!) Hơn nữa, trong khuôn khổ một truyện ngắn, tác giả đă khá tham lam khi muốn độc giả mặc nhiên chấp nhận những điều mà tác giả không nhắc đến, thí dụ như việc Mai bị đi lấy chồng trái với ư muốn của nàng. Người chồng chỉ được nhắc đến một cách vô thưởng vô phạt trong vài chữ, không đủ để làm cho độc giả “ghét” như ghét nhân vật Thân trong Đoạn Tuyệt để có cảm t́nh hơn với nhân vật nữ trong truyện mà thương cảm cho mối t́nh ngang trái cùng những hành động bột phát của nàng. Nếu Tuân không đột nhiên về quê hôm ấy, th́ có lẽ Mai đă đi lấy chồng và rất có thể đă sống một cuộc đời, nếu không hạnh phúc th́ cũng b́nh thường như mọi người đàn bà thôn quê Việt Nam vào thời đại ấy. Đàng này, sự cuồng nhiệt của Mai khi đến với Tuân khiến độc giả tự hỏi một thiếu nữ dám làm những chuyện táo bạo như Mai, sao không dám phản đối việc gả chồng ngoài ư muốn, mà đến nỗi phải chết một cách hoang đường không nguyên cớ như vậy? C̣n Tuân, có vẻ như một thanh niên con nhà khá giả và không mấy phụ thuộc vào cha mẹ (muốn đi Đồ Sơn chơi với những cô bạn gái táo bạo th́ đi, muốn về quê “tán tỉnh” cô hàng xóm th́ về), nếu yêu Mai đến thế, sao Tuân không rủ Mai theo chàng đi trốn lên tỉnh? Rốt cuộc, Tuân chỉ như một gă trai lơ, háo thắng, muốn chinh phục và chiếm đoạt cái mà người khác sắp thụ hưởng mà thôi. Đọc đến cuối truyện, ta thấy Tuân không c̣n phù hợp với một Tuân ở đoạn mở đầu, nằm trên chiếc chơng tre kê vào bóng tối của ánh trăng “sáng vằng vặc, du như sáo diều; ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn ngập trên con đường trắng xóa”. Lại càng không phù hợp với một Tuân của “Một hôm, Tuân ra cánh đồng trở về gặp Mai trước cổng nhà. Thấy Tuân, Mai e lệ, má đỏ bừng, nghiêng chiếc nón che ngang mặt. Tuân dừng lại, không biết nói ǵ“, mà là Tuân một gă thanh niên học đ̣i sự táo bạo của tỉnh thành, đột nhiên cao hứng đem cái táo bạo đó về giết chết cô hàng xóm ngây thơ ngày nào rồi bỏ đi không một chút ngại ngần thương tiếc. Đến nhân vật Mai th́ tâm lư lại càng mâu thuẫn. Từ một cô bé thôn quê “Thấy Tuân, Mai e lệ, má đỏ bừng, nghiêng chiếc nón che ngang mặt” đến một thiếu nữ táo bạo tỏ lộ t́nh yêu một cách cuồng nhiệt tây phương như khi“Nàng ṿng tay qua cổ Tuân kéo chàng cúi xuống nàng ḥa hợp trong một cái hôn lặng lẽ. Đôi môi nàng chảy máu và đau đớn; Mai sung sướng chịu đau, gửi thác trong cánh tay Tuân tất cả thân thể và tâm hồn trong sạch của nàng.” Tâm lư nhân vật của đôi trai gái ở đây đă không được tác giả diễn tả một cách đồng nhất và khéo léo qua sự yêu cuồng sống vội (và chết cũng vội vàng!), lăng mạn một cách quá đáng khiến cho câu chuyện trở nên huyễn hoặc, không mang tính cách thuyết phục của một luồng gió mới đánh vào cái phong kiến, thủ cựu về quan niệm ái t́nh của xă hội thời đó như nhiều tác phẩm khác của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.

Cách tả t́nh làm ra vẻ táo bạo tây phương của tác giả như nói ở trên có vẻ chịu ảnh hưởng quá nhiều của tiểu thuyết lăng mạn tây phương. Có nhà phê b́nh cho rằng Thạch Lam chịu ảnh hưởng của Dostoievsky trong những tác phẩm nặng về tâm lư nhân vật. Nếu nói rằng Dostoievsky đă phải cần đến mấy trăm trang sách để giông dài về tâm lư nhân vật Rodion Romanovich Raskolnikov trong “Crime and Punishment” (Tội ác và h́nh phạt), trong khi Thạch Lam chỉ có vài trang không đủ để diễn tả tâm lư nhân vật Tuân và Mai, th́ tại sao cũng chỉ có vài trang mà Thạch Lam lại diễn tả được tâm lư nhân vật Sinh trong truyện ngắn “Đói” một cách tài t́nh và chính xác đến thế? Tiếc rằng Thạch Lam đă không đạt được điều đó trong “Đêm sáng trăng”, dù cho đó có là một truyện t́nh cảm lăng mạn chứ không đặt trọng tâm vào tâm lư nhân vật. Hơn nữa, bố cục không chặt chẽ, t́nh tiết hoang đường không làm cho độc giả xúc động, nhất là kết cuộc tưởng như bi thảm mà lại khiến cho người đọc gần như bật cười tưởng ḿnh đang đọc nhầm Liêu trai chí dị! Cái gượng gạo và hoang đường trong cốt truyện cũng như tâm lư nhân vật của “Đêm sáng trăng” thật tương phản với cái chính xác và sâu sắc trong “Đói”. Có thể so sánh cái không thực của “Đêm sáng trăng” với cái giả tạo quá lư tuởng trong “Thế rồi một buổi chiều” của Nhất Linh (chuyện một anh chàng làm cách mạng bị săn đuổi, lánh vào một ngôi chùa sư nữ, để rồi hôm sau rủ sư cô bỏ chùa theo chàng đi trốn!) Khác hẳn với cái lâng lâng nhẹ nhàng, hư hư thực thực trong “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng, hay cái lư tưởng cao đẹp nhưng rất gần sự thật khiến người đọc xúc động trong “Nửa chừng xuân” cũng của Khái Hưng hoặc trong “Đôi bạn” hay “Gịng sông Thanh thủy” của Nhất Linh.

Khi c̣n ngồi ở ghế nhà trường, chúng ta đă được nghe giảng về những tác phẩm văn chương của các nhà văn lớn. V́ đó là bài học nên cả thầy lẫn tṛ đều có “bổn phận” phải t́m ra những cái hay trong những tác phẩm đó để học hỏi và để ca ngợi tác giả. Bây giờ, khi chúng ta đă đi khá xa trên bước đường đời, nếu có dịp đọc lại những bài học năm xưa và suy ngẫm, chắc hẳn chúng ta sẽ có một cái nh́n khác biệt trên nhiều khía cạnh. Nếu  biết rằng những bài viết đầu tiên của Victor Hugo gửi đi đă không có báo nào thèm đăng, th́ cũng không có ǵ đáng ngạc nhiên nếu Thạch Lam hay các nhà văn khác trong Tự Lực Văn Đoàn cũng có những tác phẩm “nhẹ kí” hơn so với những tác phẩm khác của chính họ, v́ ngay cả những đại văn hào của thế giới cũng không phải là không có tác phẩm kém giá trị bên cạnh những tác phẩm khác nổi trội. Đó là v́ văn chương là một trong những bộ môn nghệ thuật mà cái đẹp chỉ được nhận ra khi có cái xấu đi kèm.

Dù sao đi nữa, Thạch Lam và những truyện ngắn của ông cũng đă góp phần không nhỏ trong việc đưa nền văn chương Việt Nam bước vào một khúc quanh mới trong buổi giao thời, mở đường cho một thời kỳ phong độ của nền văn học miền Nam với những tác phẩm có giá trị sau này.

California, 29 tháng 9, năm 2009

Nguyễn Hưng