Đọc
thơ Tản Đà: Tống Biệt
Tống Biệt
Lá đào
rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn,
oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa
năm tiên cảnh
Một
bước trần ai
Ước
cũ, duyên thừa có thế thôi.
Đá ṃn,
rêu nhạt.
Nước
chảy, huê trôi
Cái hạc
bay lên vút tận trời
Trời
đất từ nay xa cách măi
Cửa
động
Đầu
non
Đường
lối cũ
Ngh́n
năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Tống
Biệt của Tản Đà nguyên là một đoạn
trích trong vở kịch Thiên Thai ra đời vào khoảng năm
1916-1917, nhưng sau lại xuất hiện như là một
bài thơ riêng rẽ trong tập Khối T́nh Con II (1918) và
trong Tản Đà Tùng văn (1922). Kịch bản dựa
trên truyền thuyết Lưu Thần, Nguyễn Triệu
đời Hán nhân tiết Đoan Ngọ vào núi Thiên Thai hái
thuốc gặp tiên, rồi kết duyên cùng tiên nữ. Sau nửa
năm ở tiên cung, hai chàng nhớ nhà muốn trở về
thăm làng cũ. Tiên nữ biết hai chàng một đi không
thể quay lại cơi tiên nhưng không can ngăn được
nên đành ngậm ngùi đưa tiễn. Đây là đoạn
các tiên nữ hát tiễn đưa Lưu Nguyễn về
trần. Đọc riêng như thơ, Tống Biệt không
phải là một bài tả cảnh biệt ly mà là những
vần thơ tả t́nh lồng trong khung cảnh biệt
ly.
Để
có thể thưởng thức một bài thơ, người
đọc cần phải sống với hoàn cảnh trong
thơ, tức là phải cảm được cái t́nh của
nhân vật. Tống có nghĩa là đưa tiễn. Tác giả
đă chọn tựa đề không phải là "từ
biệt" hay "ly biệt" mà là "Tống Biệt"
cho thấy những vần thơ trong bài diễn tả
t́nh cảm của người đưa tiễn, là hai nàng
tiên nữ, chứ không phải t́nh cảm của hai chàng
Lưu, Nguyễn. Đây là điểm đáng được
quan tâm v́ từ đó ta sẽ có một cái nh́n rất khác
khi đọc bài thơ. Như vậy, để thưởng
thức bài thơ này một cách toàn mỹ, ta cần phải
bỏ quên cái phàm tục của người trần để
sống trong cái t́nh lưu luyến của hai tiên nữ
trong lúc chia ly. Cái khó và cũng là cái hay của bài này là tác giả
phải làm sao cho những người phàm tục chúng ta cảm
thấu được mối t́nh quyến luyến một
cách rất thiên thai của các nàng tiên.
Lưu,
Nguyễn quá nhớ nhà, nhớ cảnh trần gian nên
đă nhất định từ biệt về trần, mặc
lời tiên nữ khuyên nhủ rằng một đi sẽ
không có đường quay trở lại cung tiên. Hai chàng hẳn
mang một tâm trạng khác với hai nàng. Biệt ly nào mà
không se sắt cơi ḷng? Nhưng cơi ḷng người đi không
giống như cơi ḷng kẻ ở. Người đi, một
khi đă quyết định ra đi dù trong ḷng vẫn c̣n
thương c̣n nhớ là đă để cho cái háo hức,
cái rộn ràng, cái quyến rũ của một chân trời
khác chen lấn và vượt lên song song với nỗi buồn
của sự chia ly. Trong ḷng người đi, giữa nỗi
buồn đă có niềm an ủi của một chân trời
mới bù đắp phần nào. Trái lại, kẻ ở
không mang tâm trạng nào khác hơn là một nỗi buồn
trống vắng, nhớ nhung, một sự mất mát hoàn
toàn không có ǵ đắp đổi. Do đó, nỗi buồn
của người ở lại phải được diễn
tả trong thơ văn khác với nỗi buồn của
kẻ ra đi. Dịch giả Đoàn Thị Điểm trong
Chinh Phụ Ngâm, qua lời người chinh phụ rơ ràng
đă cho ta thấy nỗi buồn của người ở
lại nó chất ngất đến dường nào, dù rằng
nàng vẫn ngậm ngùi tự hỏi “Ḷng chàng ư thiếp ai
sầu hơn ai?”
Tuy
nhiên, nỗi buồn người ở lại dù sâu sắc
cũng không phải là một tâm trạng hiếm hoi trong
thi ca và không phải là một đề tài khó viết. Nhưng
nỗi buồn người ở lại cung tiên th́ hẳn
nhiên là phải khác thường! Trong Tống Biệt, tâm trạng
ấy đă được Tản Đà diễn tả rất
hay, tuy không thể nào nói là chính xác hay không chính xác v́ chúng ta,
những người trần tục làm sao biết
được cái thất t́nh mong nhớ theo kiểu cung
tiên? Tả tâm t́nh tiên th́ cũng giống như là vẽ ma
vẽ quỷ. Người xưa cho rằng vẽ người
th́ khó, vẽ ma quỷ th́ dễ v́ ma quỷ muốn vẽ
thế nào mà chẳng được? Nhưng cái hay của
người vẽ ma quỷ là vẽ sao cho người xem
tin là thật những cái không có thật. Tương tự,
tả t́nh cảm của thần tiên khó ở chỗ làm sao
cho người trần thế cảm nhận được
cái buồn của thần tiên, một nỗi buồn hư
ảo, nhẹ nhàng, bàng bạc, lâng lâng mà không kém phần
sâu lắng. Một nỗi buồn mà người phàm trần
chúng ta không bao giờ hay biết, ngoại trừ Tản
Đà.
“Lá
đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối
tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi”
Từ
hai câu đầu, tác giả đă vẽ ra một bức
tranh thủy mặc của một cảnh tống biệt
rất là tiên, có lá đào, có đàn chim, có suối nước
tiễn đưa. Hai chữ "Thiên Thai" ở đây
là tên của dăy núi ở vùng Chiết Giang bên Tàu, nơi
Lưu Thần Nguyễn Triệu đă lên tiên. Người
đời sau nhân sự tích đó mà dùng hai chữ thiên thai
để nói chung cảnh thiên tiên. Trong hoàn cảnh của
bài Tống Biệt, "Thiên Thai" phải được
viết hoa v́ là địa danh nơi xảy ra cảnh biệt
ly. Trong câu thứ nh́, hai chữ "suối tiễn" đă
được nhân cách hóa rất tượng h́nh v́ suối
là gịng nước luôn chảy từ trên non cao xuống những
cánh rừng dưới thấp. "Suối tiễn" vẽ
ra trước mắt ta cảnh hai chàng Lưu, Nguyễn quay
lưng từ trên đỉnh Thiên Thai, bước lần
theo gịng suối xuống cơi trần, để hai tiên nữ
bùi ngùi đứng trông theo. Cùng trong câu này, chữ "luống"
thường được hiểu nghĩa là khiến
(khiến cho), giống như chữ luống trong câu "Cảnh
đấy người đây luống đoạn trường"
của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long Thành Hoài Cổ,
hay "Sông trôi luống gợi gịng vô hạn" của
Quang Dũng trong bài Trắc Ẩn. Nhưng luống c̣n có
nghĩa là uổng công, mất công vô ích, thí dụ như chữ
luống trong một bài khác của Tản Đà: "Tiếc
công lặn suối qua đồi luống thay" (Khối
t́nh con I). Bây giờ ta hăy đọc lại câu này và tự
hỏi "luống" ở đây mang ư nghĩa nào?
"Suối
tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi",
Theo thiển ư th́ "luống" trong
câu này có thể mang cả hai nghĩa. Một nghĩa thông
thường là khiến: Cảnh tiễn đưa khiến
cho tiên nữ ngậm ngùi. Nhưng nếu đọc thêm nữa,
đọc xong cả bài, rồi đọc lại, th́ chữ
luống dường như đă mang ư nghĩa khác:
Nghĩa của tâm t́nh nàng tiên tự nhủ rằng ngậm
ngùi nữa mà chi, chỉ là uống công thôi, chàng đă đi
rồi!... "Luống" bây giờ dường như
mang ư nghĩa "hoài công"! Đó chính là cách mà Tản
Đà đă chọn chữ dùng trong bài này, hư hư thực
thực, lơ lơ lửng lửng như nằm trên một
ranh giới của ảo giác giữa thiên đường
và hạ giới, giữa t́nh yêu trần thế và sự
nhiệm mầu của cơi vô biên.
"Nửa
năm tiên cảnh
Một
bước trần ai"
Hai câu
ngắn với chữ dùng đối xứng rất hay một
lần nữa vẽ ra lằn ranh giới ấy. Chỉ cần
một bước chân thôi, một bước chân định
mệnh mà hai chàng đă chọn để xa rời tiên cảnh
bước xuống cơi trần, dù vẫn biết rằng
trần ai là bể khổ. Có bản chép "một phút trần
ai" là hoàn toàn sai và vô nghĩa, v́ cái ranh giới giữa
tiên và tục chỉ có thể hiển hiện bằng một
hành động, một bước quay đi của hai
chàng Lưu, Nguyễn chứ không thể xác định bằng
"một phút", một khắc, hay một giờ cái
thời gian cần thiết để đưa hai chàng từ
cơi tiên về cơi tục. Chỉ một bước chân thôi,
ngoảnh đầu nh́n lại đă không c̣n thấy
đâu là tiên cảnh nữa!
"Ước
cũ duyên thừa có thế thôi" là một lời than văn
thật là “người” của đôi tiên nữ. Th́ ra tiên cũng
tin vào lời ước hẹn thủy chung của con
người và cả vào duyên số nữa! Qua tiếng thở
than này, ta thấy được nửa năm ân ái đă
là quá ngắn khiến cho nàng phải cất tiếng ngậm
ngùi rằng "duyên thừa có thế thôi!" T́nh cảm
chất chứa trong câu này đă khiến cho các nàng tiên của
Tản Đà trở nên rất gần gũi với chúng ta
v́ các nàng đă có một thái độ giống như những
người đàn bà Á Đông khi bị phụ t́nh: Trách
móc, thở than, nhưng vẫn đành cam chịu!
"Đá
ṃn, rêu nhạt
Nước
chảy, huê trôi"
Chỉ
trong bốn chữ, được phân làm hai câu, tác giả
đă lôi kéo thời gian không biết là bao nhiêu năm tháng ào
ào lướt qua đỉnh Thiên Thai nơi đă chứng
kiến mối duyên t́nh kỳ ảo. Xin chú ư rằng tác giả
đă dùng chữ "huê" chứ không phải là
"hoa". Đây có lẽ chỉ là một cách dùng chữ
theo lối cũ như Tản Đà vẫn hay dùng.
Nhưng thế nào mặc ḷng, chúng ta phải tôn trọng
nguyên bản. (Cũng như ở câu cuối cùng ông đă
viết “ngh́n năm” chứ không phải ngàn năm.)
"Cái
hạc bay lên vút tận trời". Cái hạc, mà không phải
là cánh hạc, đôi hạc, hay bầy hạc, v́
"cái" tượng trưng cho sự đơn lẻ.
Cái hạc là h́nh ảnh tiên nga, là biểu tượng của
vĩnh cửu. Cái vĩnh cửu mà chàng đă từ bỏ
để về với trần ai. Cái vĩnh cửu đă
một ḿnh ở lại, đă vút bay vể nơi không tục
lụy nhưng từ đây không khỏi mang theo một nỗi
ngậm ngùi v́ duyên thừa chỉ có thế thôi!
"Trời
đất từ nay xa cách măi". Chiếc cầu định
mệnh đă cắt đứt không c̣n đường trở
lại. Không phải chỉ là chàng xa thiếp, thiếp xa
chàng, mà cả đất trời từ nay không bao giờ
tái ngộ. Phải chăng đó cũng là lẽ thường
của tạo hóa, cái lẽ thường mà tiên nữ thở
than nhưng cũng đành chấp nhận?
"Cửa
động
Đầu
non
Đường
lối cũ"
Một
câu bảy chữ nhưng lại được ngắt ra
làm ba hàng. Nhịp ngắt quăng tựa như bước
chân nàng ngập ngừng quay về đường xưa lối
cũ, ngậm ngùi nh́n lại nơi chốn đă mang dấu
tích chàng xưa. Này cửa động, này rừng đào,
này lối ṃn, này đỉnh núi. Đến măi ngh́n sau, sẽ
chỉ c̣n một bóng trăng thơ thẩn.…
"Ngh́n
năm thơ thẩn bóng trăng chơi".
Có bao
nhiêu ư nghĩa trong thơ văn cho một chữ
"trăng"? Trăng là mộng mơ, là ảo hóa, là dịu
dàng, là xa xôi... Là ǵ nữa, là ǵ nữa? Là rất nhiều,
là tất cả! Chỉ c̣n có bóng trăng thôi, thế nhưng
bóng trăng ấy lại rất chơi vơi vô định.
Nghĩa là c̣n tất cả mà cũng là chẳng c̣n ǵ hết!
Trăng đây không soi, không ngời sáng, cũng không âm u, lạnh
lẽo. Nhưng trăng đây chơi vơi vô định,
v́ tất cả hồn trăng đă tan theo "ước
cũ duyên thừa có thế thôi".
Theo Nguyễn
Đ́nh Toàn th́ nguyên thủy Tản Đà đă dùng chữ
"trăng soi" ở câu cuối bài Tống Biệt này.
Phải đến mười năm sau chính tác giả mới
sửa lại thành "trăng chơi", một chữ
mà nhiều nhà phê b́nh đă tôn xưng là "thánh tự".
Một chữ "chơi" mông lung nhưng không phóng túng
như nghĩa trong các chữ ‘chơi hoa” hay “chơi
thơ” v́ ở đây nó không có chủ từ rơ rệt. Nó khoáng
đạt nhưng không hời hợt như trong “thử
chơi” hay “cười chơi”. Nó đơn sơ nhưng
không khô khan găy gọn như trong “giờ chơi” hay “vườn
chơi”. "Trăng chơi", một chữ
"chơi" chưa bao giờ được đi cùng
với bóng trăng trong thi ca nhưng lại rất quyến
luyến dịu dàng, nên nó vừa xa lạ lại vừa gần
gũi lắm. Bóng trăng mơ hồ, huyền hoặc,
thơ thẩn chơi vơi ngh́n năm quanh đầu non
lối cũ như kiếm t́m, như đợi mong, mà vẫn
biết thời gian không bao giờ trở lại.
Ngoài sự
thay chữ "soi" bằng "chơi" như nói
trên bởi chính tác giả, c̣n có một chữ nữa trong
bài Tống Biệt mà có sách xuất bản từ thời
tiền chiến đă in khác. Đó là chữ "luống"
trong câu "Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm
ngùi", đă được các bản cũ chép là "những
ngậm ngùi". Hoài Thanh Hoài Chân trong Thi Nhân Việt
Tống
Biệt, theo thiển ư, là một bài thơ rất đẹp
từ ư đến lời. Nhưng nếu phải chỉ
ra một cái ǵ không thích hợp trong bài này, chỉ một
thôi, th́ đó là chữ “oanh” trong câu thứ hai. Oanh là giống
chim hót vào buổi sớm, giọng réo rắt tươi vui.
Nhưng oanh yến lại c̣n ám chỉ những ái t́nh
lăng nhăng, những thú vui kém phần thanh nhă. Lấy
h́nh ảnh chim oanh để véo von đưa tiễn hai
chàng từ cơi tiên lần về nơi tục lụy không
phải là một biểu hiệu thanh cao. Câu này đă
được tác giả ưu ái dùng những chữ thật
hay và đẹp như “suối tiễn” và “luống ngậm
ngùi”. Tiếc rằng hai chữ “oanh đưa” không có cái
hay như vậy, mà trái lại đă phần nào phá đi
cái thanh cao của thiên thai tống biệt. “Oanh đưa”
đă không có được cái cao vút của hạc về
trời, cũng không có cái nhẹ nhàng của lá đào
rơi rắc, cái tĩnh lặng của đá ṃn rêu nhạt,
cái trăm năm của nước chảy huê trôi. Lại
càng không có cái mông lung của bóng trăng chơi ngh́n năm
thơ thẩn.
Trong vở
kịch Thiên Thai, đây là đoạn hát tiễn đưa
của các tiên nữ theo điệu Hoa phong lạc, một
điệu hát Trung Hoa. Nhưng Tống Biệt thường
được thưởng thức như là một bài
thơ độc lập. V́ vậy, tuy rằng tác giả
không cố ư làm thơ tự do, nhưng khi đứng riêng
th́ bài thơ lại mang nhiều âm điệu thơ tự
do hơn là những h́nh thức văn thơ cổ điển
khác mà ông hay viết. Điều này làm nên một sự mâu
thuẫn v́ Tản Đà lúc sinh thời là người
đă hết sức chống đối phong trào thơ mới
mà Phan Khôi là một trong những người chủ xướng.
Trong một cuộc bút chiến, Tản Đà đă đ̣i
đem Phan Khôi ra Văn Miếu "đánh đ̣n"! Vào
cuối thập niên 1930, khi phong trào viết văn làm
thơ theo lối mới dâng cao, Tản Đà đă bị
nhiều văn thi sĩ đương thời chế giễu,
kể cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Ông gần
như bị cô lập trên các thi văn đàn chỉ v́ cái
quan niệm bảo thủ cộng với cái ngông của
ông. Măi đến vài năm cuối cuộc đời ông mới
lại ra cộng tác và dịch thơ Đường cho
báo Ngày Nay do Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn chủ
trương. Ông đă để lại những bài thơ
dịch rất hay trong thời gian này như bài Hoàng Hạc
Lâu của Thôi Hiệu, được ông dịch ra theo thể
lục bát. Ông sống trong cảnh nghèo nàn, túng quẫn và
qua đời ngày 7 tháng 6 năm 1939 tại nhà riêng trong khu
phố nghèo ở Hà Nội. Đám tang xơ xác của ông
đă chẳng có mấy người đưa tiễn. Thế
nhưng, mỉa mai thay, sau khi ông mất th́ hầu như tất
cả các danh tài văn học thời bấy giờ đều
thi nhau biểu lộ ḷng kính ngưỡng! Phải chăng
đó là một sự "kính nhi viễn chi" chen lẫn
với ḷng đố kỵ của người
đương thời trước thi tài và cái kiến thức
cổ điển không mấy người c̣n theo kịp của
Tản Đà lúc sinh tiền? Mặc dù khẳng định
Tản Đà là một "người thời trước"
và không cùng mang "lốt y phục, lốt tư tưởng",
nhưng Hoài Thanh Hoài Chân vẫn để ông lên đầu
sách và mời ông "khai hội Tao Đàn" với những
lời lẽ vô cùng tôn kính trong Thi Nhân Việt Nam được
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1942.
Sau Trần
Tế Xương (mất 1907) và Nguyễn Khuyến (mất
1909), thi ca Việt
Nguyễn Hưng
THTĐ, khóa 7
Tài liệu tham khảo:
- Tản Đà tùng văn (1922), bản in
lại không rơ nxb.
- Nhà Văn Hiện Đại (1942-1945),
Vũ Ngọc Phan, nxb Thăng Long tái bản (1965)
- Thi Nhân Việt
- Thi Ca Việt Nam Hiện Đại
(1965), Trần Tuấn Kiệt, Sống Mới
- Bông Hồng Tạ Ơn, Nguyễn
Đ́nh Toàn (2006)
- Internet: Wikipedia.com, Thivien.net.