QUÊ HƯƠNG NGÀY CŨ

 

 

            Quê hương là nơi mà ḿnh sinh ra đời và lớn lên ở đó, sống hầu hết thời kỳ thơ ấu với rất nhiều kỷ niệm. Ông bà chúng ta thời xa xưa đều sống bằng nghề nông và thường định cư ở một nơi, đời nọ sang đời kia.Vậy nên khi nói đến quê hương là người ta liên tưởng ngay tới một làng quê với lũy tre xanh, với cánh đồng lúa. Chúng ta lớn lên với những người thân yêu: cha mẹ, anh chị em, họ hàng cùng với những sinh hoạt đồng quê. Hoàn cảnh đó tạo ra một thứ t́nh cảm mật thiết, gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của ḿnh, đó là t́nh quê hương.

            Những ngày thơ ấu là những trang giấy trắng đầu tiên trong cuộc đời với tâm hồn trong sạch, vô tư, hồn nhiên; những ǵ ghi vào đó đều rơ ràng, trong sáng, trung thực và in sâu vào kư ức, dù cho khi lớn lên, khi về già, vẫn c̣n đậm nét.

            Khi lớn lên, v́ học vấn, v́ hoàn cảnh mà phải xa quê hương, rồi cuộc đời đưa đẩy, sống ở nhiều nơi. Cuộc sống thực tế trở nên phức tạp khi phải tiếp xúc với nhiều hạng người, hầu hết không phải là những con người thuần phác, đơn như ở làng quê. Giai đoạn này cũng có rất nhiều kỷ niệm, nhiều khi không muốn nhớ, không đáng nhớ. Những trang giấy của khoảng đời này không c̣n trong sáng, hồn nhiên, tươi đẹp mà nhiều khi phức tạp, đen tối và lắm buồn phiền.

            Khi trở về già, con người chỉ thích sống với quá khứ th́ h́nh ảnh quê hương và tuối thơ ấu thần tiên luôn luôn c̣n ở trong kư ức và c̣n hiện ra rơ ràng nhất, măi măi không phai!

                                                           x 

                                                         x   x

 

            Tôi sinh ra đời ở một làng quê nghèo nàn miền bắc Việt Nam, cách tỉnh lỵ Hưng Yên chừng 20 cây số. Làng tôi cũng như mọi làng quê tiêu biểu khác, có lũy tre xanh bao bọc quanh làng, chạy dài theo một ḍng nước ở phía trước làng mà dân làng tôi gọi là cái cừ, nó lớn hơn một cái lạch, nhỏ hơn một con sông. Phía bên kia là cánh đồng làng rộng bao la tiếp giáp với những lũy tre xanh theo đường ṿng cung của những làng bên cạnh. Con đường từ cuối làng đi ra phải qua một cây đa lớn và một quán hàng trước khi ra cánh đồng và những làng bên cạnh. Phía sau làng là một con đê nhỏ chạy dọc theo làng, hai bên cũng trồng lúa. Một phía cuối đường đê, cắt ngang bởi một ḍng sông, có quán nước và con đ̣ đưa khách sang sông. Phía trên là đường đi tới các làng khác, vào tới tỉnh lỵ.

            Khi tôi lên 7, 8 tuổi, ngoài việc học hành, tôi bắt đầu được tiếp xúc, tham dự những sinh hoạt nơi đồng quê. Anh em chúng tôi thường mang trâu ra đồng, thả cho chúng ăn cỏ rồi chơi đánh khăng, đánh đáo; nô đùa chạy nhảy với lũ bạn cùng tuổi cho tới gần chiều tối mới cưỡi trâu trở về nhà.

            Những chiều mùa hè, khi gió nam thổi mạnh, chúng tôi rủ nhau ra ngoài đồng thả diều. Chúng tôi thường làm hai loại diều: diều bầu và diều cốc. Diều bầu h́nh bầu dục, diều cốc trông như hoa 3 cánh, 2 cánh ngang 1 cánh đuôi (gọi là diều cốc có lẽ v́ nó giống như con chim cốc dang hai cánh ra để phơi nắng). Diều bay lên tới một độ cao nào đó, có gió thổi mạnh đều th́ bay lượn ở trên không măi cho tới khi chủ nó kéo xuống, đem về. Nhiều khi nếu dùng dây diều, chỉ gai không bền, diều căng gió, bị đứt sẽ bay đi rất xa, có khi bay qua sông, sang làng bên. Người lớn cũng chơi diều, diều của họ rất to, có thể mang theo sáo, 1 chiếc hoặc một bộ 5 chiếc, có độ lớn và âm thanh khác nhau. Loại diều này, dây làm bằng nan tre vót rất mảnh, nối liền nhau, cột chặt bằng chỉ gai và cuộn quanh một khung tṛn h́nh bánh xe. Khi có gió lớn mới thả được loại diều này và cần hai người lớn, một người đâm diều lên, một người chạy với ṿng dây khoác trên vai. Phải khỏe lắm mới giữ được cho khỏi bị diều lôi đi khi nó lên cao. Khi diều lên cao, gió thổi mạnh, sức người dù khỏe cũng không thể giữ được lâu, họ phải đóng cọc lớn xuống đất rồi cột ṿng dây vào đó. Chú tôi là một trong những người chơi loại diều này.

            Những đêm mùa hè, giải chiếu nằm ngủ trên sân có gió mát, dưới bầu trời trăng sao, nghe tiếng sáo diều - với bộ sáo ngũ âm - như ru ḿnh vào giấc ngủ tuyệt vời!

            Vào mùa lúa chín, cả một cánh đồng màu vàng nhạt dưới ánh nắng chiều, từng làn gió nhẹ làm thảm lúa vàng gợn sóng đến tận chân trời, tới lũy tre xanh những làng bên, tiếp giáp với nền trời xanh và những v́ sao mọc sớm, khung cảnh êm đẹp, thần tiên!

            Đàn bà, trẻ con ra ngồi chơi, chuyện tṛ, nô đùa dưới bóng mát của hàng tre, nh́n ra cánh đồng với niềm vui tràn ngập. Vụ mùa thu hoạch sắp tới, hứa hẹn nhũng ngày hạnh phúc, ấm no.

            Khi mùa gặt tới, cả cánh đồng làng vui vẻ, nhộn nhịp. Những buổi chiều mùa gặt lúa, từng đoàn người kĩu kịt gánh lúa, xen lẫn với những mục đồng trên ḿnh trâu trở về nhà, một bức tranh quê thật đẹp, rộn ră niềm vui! Trước khi về nhà nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, những người đàn ông rủ nhau xuống tắm ở phía cừ cuối làng. Hồi đó tôi c̣n nhỏ, thấy và coi chuyện đó là b́nh thường khi nh́n họ thản nhiên cởi quần áo nhảy xuống nước, xong rồi lên bờ, mặc lại quần áo cũ vào. Bây giờ tôi nhớ lại mới thấy là kỳ v́ họ không hề ngượng ngùng (dĩ nhiên là chỉ có đàn ông, đàn bà không tắm như vậy), cũng không hề mặc đồ lót và vẫn mặc quần áo cũ!

            Giai-đoạn  kế tiếp là đập lúa. Những lượm lúa được cột liền vào những cái néo làm bằng hai đoạn tre dài chừng 2 bộ, nối vào nhau bằng một đoạn dây, trông tựa như vơ khí của Lư Tiểu Long. Hai người lần lượt thay phiên nhau đập lượm lúa vào mặt một cối đá đặt nghiêng. Những hạt lúa sẽ rời khỏi thân cây lúa, văng ra.

            C̣n nhiều công việc tiếp theo sau đó như quạt lúa để loại bỏ những hạt lép, phơi lúa cho khô, xay lúa để lấy gạo, giă gạo để loại bỏ lớp cám bên ngoài để lấy hạt gạo trắng, sản phẩm cuối cùng để nấu cơm.

            Khi mùa gặt đă xong, cả cánh đồng chỉ c̣n trơ gốc rạ. Những con cào cào không c̣n chỗ nương thân, bay lung tung. Đợi khi trời mưa xuống là chúng tôi mang chai và vỉ ruồi ra đồng đuổi bắt cào cào.V́ mưa ướt cánh nên những con cào cào không thể bay xa được . Chúng tôi dùng vỉ ruồi, chạy theo, đập rớt chúng xuống, bỏ vào chai, mang về rang, ăn với cơm. Cào cào rang với muối và lá chanh, thêm một chút mỡ, là món ăn ngon tuyệt ở miền quê, nhất là những con cào cào trứng, ăn thật bùi, béo ngậy!

            Khi trời mưa nhiều, các lạch đầy nước, chúng tôi thường rủ nhau lấy đất ngăn nước, đắp bờ từng đoạn nhỏ rồi tát nước đi để bắt cá. Tṛ chơi này làm ướt quần áo, bùn đất dính đầy người, mặt mũi lem luốc nhưng khi bắt được nhiều cá, thật là vui!

            Những thú vui khác như đi câu cá, thả ống tre bắt lươn, bắt ong mật, bắt chuồn chuồn, hun khói bắt chuột đồng…

            Vào dịp Trung-thu,chúng tôi chơi rước đèn dưới đêm trăng. Đèn xếp, đèn ngôi sao, đèn cá chép… Đèn nào cũng có một cây nến ở bên trong.

            Vào mùa trăng,những thanh niên nam nữ trong làng thường tổ chức hát trống quân. Họ đào một cái hố sâu dưới mặt đất, đường kính chừng nửa thước. Một mảnh gỗ đậy lên miệng hố, một sợi dây thừng căng ngang qua mặt hố và được cột chặt vào hai cột đóng xuống đất ở hai bên. Một đoạn tre đội dây thừng lên cao và đứng trên mảnh gỗ. Đoạn tre cao th́ dây thừng căng thẳng và khi lấy dùi tre gơ vào dây thừng hai bên, dây phát ra tiếng kêu “thùng thùng” (tựa như dây đàn và thùng đàn). Nam nữ chia nhau ngồi hai bên, gơ vào dây thừng, đánh nhịp mà hát. Một bên hát trước, bên kia hát đối đáp lại. Họ hát những câu, nhũng bài hát ngắn, có vần, có điệu, thường là thể lục bát với ư nghĩa t́nh tứ, ngụ ư ướm hỏi thử thách, thăm ḍ t́nh cảm của nhau. Chúng tôi c̣n nhỏ, chỉ ngồi ngoài nghe mà không được tham dự,và cũng chẳng biết ǵ mà tham dự. Những sự lựa chọn, những mối t́nh thường chớm nở từ những buổi hát trống quân này.

            Ngoài vụ chiêm và vụ mùa, làm lụng vất vả, bận rộn th́ người dân quê sống vui vẻ, thoải mái với những ngày hội hè, đ́nh đám; chỉ những dịp đó họ mới được ăn uống thịt thà khi làng mổ lợn, mổ trâu.

            Vui thích nhất là vào dịp Tết. Nhà tôi thường mổ heo vào hôm 29 tết. Thịt heo được chia làm nhiều loại để làm gị lụa, gị thủ, gị b́, để gói bánh chưng, xào,nấu… Anh em chúng tôi chạy lăng xăng hết chỗ nọ tới chỗ kia. Thich nhất là lúc giă gị. Thịt nạc được bỏ vào cối đá, dùng chày lớn để giă thịt cho tới khi nát nhuyễn, cho nước mắm vào, trộn đều, cuối cùng, dùng lá chuối để gói thành cái gị. Tiếng giă gị lốp bốp nghe thật vui tai. Anh em chúng tôi cứ chầu chực bên cạnh những người giă gị, đợi khi có miếng thịt nát nhoét nào bắn ra là vội vét lấy ngay, góp dần lại, lấy lá chuối gói thành một cái gị nhỏ xíu.

            Chiều 30 Tết th́ gói bánh chưng. Vật liệu gồm có gạo nếp đă ngâm nước, đậu xanh cũng đă ngâm nước, thịt ba chỉ trộn muối và hạt tiêu. Lá để gói bánh chưng là lá rong, rộng chừng 1 bộ, dài hơn 2 bộ, mềm dẻo và không dễ bị găy, rách. Thày tôi gói bánh chưng rất khéo, rất chặt tay, vuông vức và đều. Những chiếc bánh chưng mới gói, màu lá xanh tươi, dây lạt tre màu trắng trông mới đẹp mắt làm sao! Anh em chúng tôi cũng gói cho ḿnh một chiếc nhỏ. Để thịt và đậu vào giữa gạo ở trên   rồi gói thật là khó, không thể gói chặt và vuông theo ư ḿnh được. Cuối cùng, chiếc bánh ra h́nh khối chữ nhật và nó mềm xèo!

            Bánh chưng mới gói được xếp vào một thùng sắt lớn, đổ nước vào, đặt trên bếp giữa sân, chất củi đun ở dưới. Phải ninh bánh hàng 5, 6 giờ đồng hồ, thêm nước nhiều lần, thường là qua giao thừa mới chín được.

            Lễ cúng giao thừa vào đúng nửa đêm 30, để “tống cựu, nghinh tân”, đón ông bà, các cụ về và đốt pháo mừng năm mới.

            Sáng mồng một Tết thường là thủ tục xông nhà và xuất hành. Người ta thường chọn những người có tuổi, hiền lành, phúc đức, mau mắn và có nhiều con cái để nhờ xông nhà ḿnh, lấy hên. Chủ nhà thường xem bói hoặc xem lịch để biết hướng đi nào hợp với tuổi ḿnh mà xuất hành, mong cho cả năm được may mắn.

            Sáng mồng một Tết, chả cần ai gọi, anh em chúng tôi cũng dậy thật sớm để được mặc quần áo mới, được phát vốn, mừng tuổi (phát-vốn là ĺ-x́).

Khung cảnh ngày Tết thật là nhộn nhịp, nhiều màu sắc, khác hẳn với trong năm, chỉ có một màu nâu hoặc đen. Trong nhà, ngoài ngơ rộn ră tiếng cười đùa, chào hỏi nhau, tiếng pháo nổ đ́ đùng khắp nơi. Người ta chúc tụng nhau đủ mọi lời tốt đẹp. Câu chúc thông thường nhất là: "Chúc ông bà giàu bằng ba, bằng bốn năm ngoái, đầu năm sinh con gái, cuối năm sinh con trai”.

            Thích nhất là lúc được mẹ tôi hoặc chị tôi cho đi theo chúc Tết họ hàng v́ sẽ được ăn bánh kẹo và được tiền phát vốn. Hồi đó tôi không thấy tiền giấy, chỉ có đồng xu và đồng trinh (trinh bằng nửa xu).

            Nhà nào nhà nấy, bàn thờ ông bà lúc nào cũng khói hương nghi ngút, thức ăn, trái cây la liệt! Những ngày Tết ai cũng được ăn nhiều, v́ vậy mới có câu: "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết".

            Ba ngày Tết qua mau. Ngày mồng 3 là ngày hóa vàng tức là đốt vàng mă để tiễn đưa ông bà, các cụ ra đi. Một nỗi buồn sau những ngày vui, cũng là nỗi buồn sắp phải xa nhà ra tỉnh học!

            Từ năm 6, 7 tuổi, mẹ tôi đă gửi chúng tôi vào tỉnh học, trọ ở nhà bác tôi, một năm chỉ về nhà hai lần là dịp Tết và nghỉ hè. Mẹ tôi phải bán nhiều thóc lúa để cho chúng tôi đi học. Từ làng vào tỉnh lỵ chỉ cách chừng 20 cây số mà sao ngày ấy tôi thấy xa xôi quá v́ chúng tôi đi bộ, mất hơn nửa ngày mới tới. Mẹ tôi thường đưa chân chúng tôi trên con đường đê sau làng. Mẹ tôi dặn ḍ anh cả tôi (lớn hơn chúng tôi chừng 5,6 tuổi) và chúng tôi đủ điều. Đưa chân hàng cây số mẹ tôi mới quay về. Đi được một đoạn đường tôi lại ngoái cổ nh́n, mẹ tôi c̣n đứng đó. Tôi nh́n lại nhiều lần cho tới khi mẹ tôi khuất bóng mới thôi.

            Sau này mẹ tôi thường kể lại rằng mỗi lần đưa chân chúng tôi vào tỉnh học, khi về nhà, mẹ tôi hết đứng lại ngồi, lên nhà trên, xuống nhà dưới, bụng bồn chồn, nôn nao, không làm ǵ được cả!

            Tôi cảm phục sự can đảm của mẹ tôi. Tôi kính yêu, biết ơn và thương nhớ mẹ tôi vô vàn! Một bà mẹ quê Viêt Nam ít học mà biết nh́n xa, trông rộng; thương con mà đành phải xa con, chỉ v́ tương lai của con, mong con nên người. Nếu mẹ tôi cũng như những bà mẹ quê khác, bất quá chúng tôi cũng lớn lên, lấy vợ, sinh con ở làng, là một phú nông an phận vói cuộc sống b́nh dị nơi đồng quê. Bây giờ tôi đă già rồi mà tôi vẫn thường nhớ tới mẹ tôi luôn luôn. Mỗi lần nhớ tới mẹ, tôi không khỏi rơm rớm nước mắt. Mẹ tôi đă mất lâu rồi, 40 năm rồi, từ năm Mậu-thân 68. Tôi vẫn thường tự trách ḿnh, sao không làm được hơn nhũng ǵ đă làm để cho vui ḷng mẹ hơn. Khi viết những ḍng này, tôi lại khóc rồi đó!

            Sau vài ba năm ở bậc tiểu học, biến cố 1945, chúng tôi về quê học tiếp lớp nh́, lớp nhất ở những làng bên và chúng tôi lại gần gũi, gắn bó với những sinh hoạt đồng quê.

            Năm 1950, chúng tôi lại “trở về thành”, vào bậc trung học. Trong những năm này, v́ thời cuộc nên chúng tôi ở luôn tỉnh mà không trở về làng nữa cho tới 1954, vừa xong trung học phổ thông, chúng tôi cùng gia đ́nh vào Nam. Lần ra đi này, xa hẳn quê hương, đi về phía bên kia ḍng Bến-Hải.

            Tôi nhớ khi vào Nam, đoàn người căng lều tạm trú trên một băi cỏ rộng ở B́nh Đông, đêm nằm dưới bầu trời trăng sao. Đặc biệt là mấy ngày hôm đó, đài phát thanh (radio chạy pin) phát đi, phát lại bài “Thuyền viễn xứ” của Phạm Duy “… Nh́n về đường cố lư, cố lư xa xôi…” bản nhạc gợi ḷng nhớ quê hương năo nề, tha thiết! Bài này đối với tôi là một kỷ niệm khó quên!

            Những năm cuối cùng của bậc Trung học, gia đ́nh tôi thay đổi chỗ ở nhiều lần nên tôi không có ư niệm sâu đậm ǵ về quê hương mới. Tôi vào Đại-học sư-phạm, ra trường và bắt đầu nghề dạy học, ở Cà Mau 4 năm rồi về Trung học Thủ Đức. Thế rồi biến cố 75, lại một lần nữa ra đi, quê hương xa vời vợi!

            Lần đầu tiên tôi xa đất nước. Con tàu viễn xứ đưa tôi dời khỏi Việt Nam. Quay nh́n lại quê hương, xa thẳm, mờ dần và chỉ c̣n là trời biển mênh mông! Những ngày lênh đênh trên sóng nước, những khi hoàng hôn xuống, mặt trời sắp lặn, chỉ c̣n những vạt nắng yếu ớt sau cùng c̣n sót lại ở cuối trời, ḷng kẻ tha hương nặng trĩu nỗi buồn! Người ta thường ca ngợi cảnh hoàng hôn trên mặt biển, giờ đây đối với tôi, chẳng c̣n ḷng dạ nào để mà thưởng thức. Tôi chỉ thấy đó là một ngày sắp hết, một màu ảm đạm của tương lai! Giờ phút ấy, tôi chợt nhớ tới hai câu thơ cuối trong bài “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, rất hợp t́nh, hợp cảnh:

                        “Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

                                    Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

                                    Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

                                    Trên sông khói sóng gợi buồn ḷng ai.

                                                  (Tản-Đà dịch)

                                                                 

                                                                    x

                                                                x     x

 

            Những năm tôi sống ở Hoa Kỳ, nhận nơi này làm quê hương, thật ḷng mà nói, chẳng có một chút t́nh cảm đậm đà ǵ. Tôi nhớ cách đây chừng 15, 20 năm, có lần họp mặt cựu giáo sư và học sinh Chu Văn An, thày Lăng, tổng giám thị, từ Úc châu qua, lên đọc một bài thơ do ông sáng tác, tôi chỉ c̣n nhớ một câu cuối:

            “Đất nước này đâu có phải quê tôi”.

Thày Lăng cũng đă mất nhiều năm rồi, thày hẳn cũng đă được trở về quê hương của ḿnh.

            Nhũng lúc rảnh rỗi tôi vẫn nhớ về quê cũ và những kỷ niệm thời thơ ấu. Dù nhắm mắt lại, h́nh ảnh làng cũ với lũy tre xanh, cây đa, cánh đồng lúa vàng vẫn hiện lên đậm nét. Một bài hát mà tôi cho là hay nhất, gây cảm xúc mạnh nhất đối với tôi, đó là bài “Chiều Quê” của Hoàng Quư: “Quê nhà tôi, chiều khi nắng êm đềm, chạy dài trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca. Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm, chuyện tṛ chung với nhau, đời sống thần tiên”. Lời ca thật b́nh dị, gợi cảm, nhắc nhở nhiều kỷ niệm, h́nh ảnh; một vùng trời quê hương, cả một thời thơ ấu!

            Một bài hát nữa, cũng rất dễ làm tôi thả hồn về quê cũ, bài “Hương Xưa” của Cung Tiến:

            “C̣n đó bóng tre êm ru, c̣n đó gốc đa hẹn ḥ, c̣n đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mang nghe sáo vi vu.” Đó cũng là nỗi niềm thương nhớ quê hương của một thời hoàng kim đă xa rồi mà nay chỉ c̣n trong hoài niệm.

            Những năm đầu tiên sống ở Hoa Kỳ, tôi nghĩ hy vọng trở về quê hương, làng cũ thật xa vời, vô vọng. Nhưng rồi hoàn cảnh dần dần đổi thay. Chừng 20 năm sau đă có một số người về Việt Nam. Tôi nao nức chờ dịp trở về, chỉ để thăm lại quê xưa.

            Sau nhiều năm mong đợi, rồi cũng đến ngày trở về, cảm giác thật là nôn nóng, hồi hộp!

            Chúng tôi từ Hà Nội về Hải Dương để gặp một người bạn cùng làng, từ hồi c̣n để chỏm và đi học với nhau đến hết Trung học đệ nhất cấp. Chúng tôi mướn một chiếc xe đi về làng. Dọc đường, nhận xét đầu tiên của tôi là những làng dẫn đến làng tôi đều trơ trụi, không hề thấy lũy tre xanh nào cả! Khi xe ngừng lại và bạn tôi nói: "đă đến rồi đây", tôi ngạc nhiên tự hỏi, quê nhà ḿnh đây sao? Lũy tre xanh bao quanh làng ngày xưa không c̣n nữa, nhà trệt nhỏ xíu, xây lô nhô đủ h́nh dạng. Đi khắp mọi nơi mà tôi không nhận ra một di tích của ngày xưa. Cây đa trước làng, lối ra cánh đồng không c̣n nữa, nhánh sông chảy vào làng và cả con sông đă bị lấp rồi và dĩ nhiên con đ̣ ngang cũng đâu c̣n nữa!

            Tôi buồn ngẩn ngơ v́ sự thay đổi quá nhiều, đến độ tàn nhẫn! Tôi chợt thông cảm nỗi buồn và niềm hoài cổ của thi sĩ Trần Tế Xương qua bài “Lấp sông Nam Định”

                        Sông kia rày đă nên đồng,

                        Nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai.

                        Đêm đêm nghe tiếng ếch bên tai,

                        Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣.

            Khu nhà tôi ở ngày xưa, nơi tôi sinh ra đời và lớn lên, bây giờ đă chia năm xẻ bảy, nhà những người khác cất lên ở đó. Cây nhăn gốc to bằng người ôm đă bị chặt đi, hai cái ao trước và sau nhà đều bị lấp mất rồi!

             Tôi nhớ, gần bến đ̣ phía sau làng có một cái miếu thờ thần. Cạnh miếu có một cây đa cổ thụ, gốc đa rễ chằng chịt, người làng thường trông thấy những con rắn đen sặc sỡ, có mào ở đầu, họ bảo là rắn thần. Gần đó, trên bờ sông có một cây vừng lớn, có những sợi dây hoa màu hồng buông rủ xuống. Chúng tôi thường ngắt những dây hoa, buộc thành ṿng, đeo quanh cổ. Cạnh đó là một cây sung, thân cây lớn, nằm là đà ra tới giữa sông. Chúng tôi đi tắm sông, thường ngắt cành sung, giả làm dù rồi nhảy từ trên cây xuống, người trần trụi!

            Giờ đây cái miếu, cây đa, cây vừng, cây sung và cả con sông đều không c̣n nữa. Nh́n nơi nền miếu cũ, trạnh nhớ tới bài thơ của bà Huyện Thanh Quan:

                         Lối xưa xe ngựa,hồn thu thảo,

                         Nền cũ lâu đài,bóng tịch dương.

                                    (Thăng Long thành hoài cổ)

            Cảnh cũ đă như vậy, người xưa th́ kẻ mất người c̣n. Anh em con chú bác đều già cả. Tuy họ có hơn tuổi tôi một chút, nhưng sao trông họ, tôi không nhận ra, râu tóc bạc trắng, bờm xờm, dáng đi lụ khụ, thần sắc lờ đờ!

Tôi t́m gặp lại một người bạn hàng xóm thưở xưa. Hồi hai đứa chơi với nhau, có lần tôi theo anh ta lên đầu làng bắt ong. Anh ta trèo lên một cây rất cao, có hoa để bắt những con ong đang hút mật (loại ong này to bằng ngón tay cái, có hai màu đen và đỏ, vặn đầu nó rời khỏi thân, sẽ rút ra được một bọng mật trắng, to bằng giọt nước). Anh ta tay không nhón bắt từng con, vặt cánh rồi ném xuống cho tôi lượm. Khi trèo xuống khỏi cây, anh ta nói với tôi là có lẽ cây này có ma và bảo tôi bắt chước anh ta vạch quần ra, đái vào tay rồi xoa lên mặt để trừ ma! Tôi sợ quá, làm theo, chẳng ngại ǵ bẩn và khai! Bây giờ tôi t́m và gặp lại được anh ta, một ông cụ già hơn tôi; tôi bèn nhắc lại kỷ niệm ấy, tưởng rằng ông cụ sẽ bật cười thích thú, ai ngờ ông cụ chỉ ậm ừ cho qua chuyện, dường như không nhớ ǵ cả! Cũng đă hơn 60 năm rồi, nhưng sao tôi c̣n nhớ rơ?

            Bây giờ người ta không ch́ trồng lúa như ngày xưa mà xen lẫn những ruộng ngô, khoai, dưa và cả mía nữa, nên cánh đồng trông không c̣n đồng nhất một màu.

            Dân làng bây giờ cũng không hoàn toàn sống bằng nghề nông. Họ làm nhiều nghề khác nhau: thợ mộc làm bàn ghế, đóng giường, tủ; thợ nề xây cất nhà cửa, mua bán vật liệu…

            Phải công nhận là bây giờ họ khá giả hơn ngày trước và chắc chắn họ không muốn trở lại nếp sống ngày xưa.

            Ngày xưa, làm ruộng vất vả, chân lấm tay bùn. Ngoài hai vụ lúa, thời gian c̣n lại th́ rảnh rang: "Tháng giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè". Mức thu hoạch mùa màng cố định, năm nào cũng như năm nào, cả vậy suốt đời, đời nọ sang đời kia. Họ an phận thủ thường. Một xă hội như vậy làm sao mà tiến bộ, giàu mạnh được? Vậy th́ sự thay đổi bộ mặt nông thôn là điều cần thiết, tất yếu.

            Nhưng tôi không quan tâm tới điều đó. Tôi chỉ thấy không có lũy tre xanh mà chỉ có những cột điện, dây điện chằng chịt th́ không c̣n là làng quê nữa. Bây giờ chẳng có một con trâu, nông nghiệp đă được cơ khí hóa, cày bằng máy. Bây giờ không c̣n con sông chảy vào làng, không người chài lưới, làm sao c̣n có cảnh:

                        Gác mái ngư ông về viễn phố,

                        Gơ sừng mục tử lại cô thôn.

                                               (Bà Huyện Thanh Quan)

            H́nh ảnh thân yêu mà tôi hằng ấp ủ và mong thấy lại khi trở về đă không c̣n nữa!

            Tôi thẫn thờ vói chiếc video camera, mang về để mong ghi lại hết h́nh ảnh quê hương, đành buồn nản cất đi.

            Tôi nhắm mắt lại để mang ra từ trong kư ức, quê hương tôi ngày xưa: Từ cánh đồng bao la, từ mái đ́nh làng, những con đường nhỏ quanh co đi vào xóm cho tới những bờ tre, bụi chuối, ao rau muống, giậu mồng tơi, cây cam, cây bưởi, hàng cau, giàn mướp…Tất cả đều tầm thường, b́nh dị, nhưng sao mà quen thuộc, thân yêu! Chúng như có linh hồn và quá gần gũi với ḿnh qua suốt cả một thời thơ ấu, và hơn nữa, có một cái ǵ huyền bí, thiêng liêng v́ đó là nơi chôn nhau cắt rốn, quê cha đất tổ.

            Người nói về quê hương ḿnh, chắc chắn là có những nhận xét chủ quan. Ai chẳng cho rằng quê hương của ḿnh là đẹp hơn cả. Dưới con mắt người khác, chỉ là một cái nh́n vô cảm, nhưng đối với ḿnh lại là cả một trời thương yêu, một vùng kỷ niệm.

            Vậy mà nay những h́nh ảnh đó không c̣n nữa! C̣n đâu lũy tre làng rủ bóng mát buổi trưa hè, c̣n đâu cánh đồng lúa bát ngát một màu, c̣n đâu gốc đa nơi trai gái hẹn ḥ, c̣n đâu con đ̣ đưa khách sang sông!

            Ôi! sao tôi cứ nhắc đi nhắc lại những h́nh ảnh này? Có người đọc sẽ nói: "biết rồi, khổ lắm, nói măi!" Nhưng tôi cứ muốn nói v́ quá luyến tiếc, như muốn cố níu kéo lại những ǵ đă mất.

            Tôi có tâm trạng của một kẻ đi t́m lại dĩ văng mà theo luật đào thải đă không c̣n, theo ḍng thời gian, đă trôi đi. Một trời quê hương, một thời thơ ấu, trắng tay kỷ niệm!

            Tôi tự hẹn ḷng, sẽ không bao giờ trở lại chốn xa lạ này để phải chịu đựng nỗi buồn mất mát lớn lao, như nỗi buồn của một kẻ mất quê hương.

            Với tâm trạng đó, tôi trở vào Nam. Sài G̣n vẫn là thành phố cũ với những con đường xưa tuy đă thay tên. Sài G̣n phát triển về chiều cao và một biển người!

            Ngày tôi ra đi, cả một thế hệ hiện tại c̣n chưa ra đời, ngày tôi trở lại, họ đă ngoài 30 tuổi, đối với tôi hoàn toàn xa lạ, tôi cảm thấy ḿnh lạc lơng! Tôi đi t́m lại cảnh cũ, người xưa.

            Đường phố Sài G̣n bây giờ đông người quá, xe cộ đủ loại, chen lấn nhau mà đi, tiếng người huyên náo, c̣i xe inh ỏi!

            Ngày xưa, những buổi trưa hè, tôi đạp xe đạp, thong thả qua trường Gia Long đường Phan Thanh Giản hay qua những biệt thự ở đường Tú Xương vắng vẻ, dưới những hàng cây cao, chỉ nghe thấy tiếng lá rụng và tiếng ve sầu. Chỉ cần lái xe một tay thoải mái, tay kia buông thả với điếu thuốc lá. Bây giờ, những con đường Sài G̣n, bạn không thể lái xe một tay, phải dùng cả hai tay để c̣n len lách, sát cánh với những xe khác mà đi. Khi bạn đi bộ mà phải qua đường mới là một chuyện đứng tim, đau đầu! Không thể chờ cho tới khi vắng xe v́ sẽ không bao giờ vắng cả, họa chăng là một vài giờ! Ḍng xe cứ ào ào đi tới! Khi có người nhà ở địa phương đi cùng, th́ họ kéo đại tôi sang đường, chặn đầu đoàn xe mà sang. Họ nói, xe nó phải tránh ḿnh chứ ḿnh không phải tránh xe. Mà quả như vậy, những xe hai bánh lách sát qua ḿnh tôi, xe bốn bánh cũng lách hoặc đi chậm lại. Qua bên kia đường rất lẹ, nhưng phải vài lần hú vía! (ḿnh hú vía thôi chứ người nhà tôi th́ tỉnh bơ!) Lối qua đường như vậy quả là thực dụng, tôi thấy mọi người đều làm như thế. Muốn sang đường là sang ngay, không chờ đợi v́ chờ đợi th́ chẳng bao giờ sang đươc. Thực tế là như vậy nhưng tôi thấy cách đó quả là coi thường mạng sống. Họ không dám đâm xe vào ḿnh nhưng nếu rủi mà họ không tránh được là ḿnh lănh đủ! Trường hợp đó có tỷ lệ xảy ra rất cao! Tính mạng con người ở đây h́nh như hơi mong manh!

            Vườn Tao Đàn đông người, nhộn nhịp từ sáng sớm. Người ta ra đó để tập thể dục, từng đoàn người tập chung với nhau. Những ngày ở Sài G̣n tôi vẫn ra đó đi bộ. Vườn Tao Đàn ngày nay không c̣n vắng lặng như xưa nữa! Tôi nhớ tới bài “Trả lại em yêu” của Phạm Duy ca ngợi vẻ thơ mộng của Sài G̣n: "Trả lại em yêu, khung trời đại học, con đường Duy Tân, cây dài bóng mát, buổi chiều khuôn viên, mây trời xanh ngắt…” Con đường Duy Tân giờ đây, dù c̣n cây dài bóng mát, nhưng người ta đă phá tan sự trầm lặng, tịch mịch của nó. Khung trời đại học, ghế đá công viên không c̣n nhiều màu sắc thiên nhiên, không c̣n vẻ thơ mộng t́nh tứ nữa. Ở đâu cũng thấy những người là người! Số người nhiều gấp 10 lần ngày trước mà!

            Tôi t́m lại những con đường đă đi “bát phố” ngày xưa. Đường Pasteur có hàng nước mía Viễn Đông, xế trước cửa có một người Trung Hoa bán hàng rong với mấy món mà tôi khoái: dồi trường, tim gan, bao tử phá lấu, được cắm vào bằng những cái tăm tre, tăm gỗ. Đường Nguyễn Huệ cửa thương xá Tax, chiều nào cũng có món thịt ḅ khô với đu đủ bào, rau thơm trong một chiếc đĩa nhôm. Người bán hàng, một tay là chai tương ớt đỏ, tay kia là chai nước giấm đường và tỏi, cùng một lúc dốc ngược hai chai, đổ vào đĩa. Thịt ḅ khô, gan ḅ khô, đu đủ, nước giấm đường tỏi ăn thật là tuyệt! Những nơi đó, bây giờ không c̣n, chắc là hàng rong bị cấm ở mặt tiền thành phố.

            Tôi lại động ḷng hoài cổ rồi! Bắt chước Nguyễn Đ́nh Liên mà than:

                        "Những người muôn năm cũ,

                                    Hồn ở đâu bây giờ?"

            Phải công nhận, Sài G̣n bây giờ trù phú hơn xưa nhiều lắm. Hiện tại cũng là lẽ tất yếu. Đây là sự tiến bộ, phồn thịnh, nhưng sao tôi vẫn thích cái “ngày xưa” ấy. Hoài niệm những ǵ mà nay chỉ c̣n là “vang bóng một thời”, t́m lại quá-khứ mà tôi cho là thời hoàng kim ấy, tựa như đi t́m ảo ảnh, lội ḍng nước ngược!

            Tôi nhận thấy Sài G̣n ngày nay không c̣n thích hợp với ḿnh nữa rồi, cảnh cũng như người. Bạn bè ngày xưa, dù là thân thiết, bây giờ gặp lại, tuy vui vẻ bề ngoài, nhưng tôi vẫn cảm thấy có một cái ǵ đó, gượng gạo, cách biệt, khó diễn tả thành lời!

            Ta về tắm ao ta không được th́ đành về tắm ao người! Tôi về lại Hoa Kỳ. Tôi suy nghĩ nhiều ngày về sự mất mát cùng ḷng hoài niệm và nhận thấy điều này: Quê hương đẹp, Sài G̣n đẹp ngày xưa, người ta không muốn giữ hay v́ hoàn cảnh mà không giữ được, họ làm mất nó đi. Họ thay thế cái đẹp mơ hồ, mông lung mà tôi cho là thần tiên, thơ mộng bằng những lợi ích thực tế, những giá trị vật chất cụ thể. Họ bằng ḷng với cái hiện tại và không hề nuối tiếc, hoài niệm dĩ văng. Hơn nữa, h́nh ảnh dĩ văng đó bị thay thế, biến đổi dần dần đồng thời cái mới cũng tồn tại dần dần cho đến ngày nay. Quá khứ bị đào thải, xóa mờ hẳn khiến người ta không c̣n nhớ nữa, chẳng hề để tâm, hoài niệm. Những h́nh ảnh, những kỷ niệm không c̣n ở trong kư ức của họ. C̣n tôi, không chứng kiến, trải qua những thay đổi đó, kư ức ngày xưa thế nào bây giờ vẫn thế, c̣n nguyên vẹn.

            Vậy th́ chính họ mới là những kẻ mất quê hương thần tiên, mất Sài G̣n thơ mộng dù rằng họ chẳng có nỗi buồn mất mát. Tôi mới chính là ngưới c̣n giữ được h́nh ảnh của quê hương xưa, nét đẹp của Sài G̣n cũ, nhắm mắt lại tôi vẫn c̣n thấy được.

            V́ ở trong thực tế nó không c̣n nữa nên tôi càng quư, cố gắng giữ ǵn và sẽ giở trang kư ức, ôn lại luôn luôn để được gần gũi cho tới những ngày cuối của cuộc đời.

            Cầu mong cho tôi sẽ không bị bệnh lăng trí để c̣n được sống với dĩ văng.

            Tôi vẫn c̣n quê hương thần tiên thuở xưa.

            Tôi vẫn c̣n Sài G̣n nên thơ ngày cũ.

          

            Houston  mùa Hạ, 2008

             Trần Ngọc Giới.

 

Xem tiếp

Mục lục