Quê
hương là nơi mà ḿnh sinh ra đời và lớn lên ở
đó, sống hầu hết thời kỳ thơ ấu với
rất nhiều kỷ niệm. Ông bà chúng ta thời xa
xưa đều sống bằng nghề nông và thường
định cư ở một nơi, đời nọ
sang đời kia.Vậy nên khi nói đến quê
hương là người ta liên tưởng ngay tới một
làng quê với lũy tre xanh, với cánh đồng lúa. Chúng
ta lớn lên với những người thân yêu: cha mẹ,
anh chị em, họ hàng cùng với những sinh hoạt
đồng quê. Hoàn cảnh đó tạo ra một
thứ t́nh cảm mật thiết, gắn bó với nơi
chôn nhau cắt rốn của ḿnh, đó là t́nh quê
hương.
Những
ngày thơ ấu là những trang giấy trắng đầu
tiên trong cuộc đời với tâm hồn trong sạch,
vô tư, hồn nhiên; những ǵ ghi vào đó đều rơ
ràng, trong sáng, trung thực và in sâu vào kư ức, dù cho khi lớn
lên, khi về già, vẫn c̣n đậm nét.
Khi lớn lên, v́ học vấn, v́ hoàn cảnh mà phải
xa quê hương, rồi cuộc đời đưa
đẩy, sống ở nhiều nơi. Cuộc sống
thực tế trở nên phức tạp khi phải tiếp
xúc với nhiều hạng người, hầu hết
không phải là những con người thuần phác,
đơn sơ như ở làng quê. Giai đoạn này cũng có rất nhiều kỷ
niệm, nhiều khi không muốn nhớ, không đáng nhớ.
Những trang giấy của khoảng đời này không
c̣n trong sáng, hồn nhiên, tươi đẹp mà nhiều
khi phức tạp, đen tối và lắm buồn phiền.
Khi
trở về già, con người chỉ thích sống với
quá khứ th́ h́nh ảnh quê hương và tuối thơ ấu
thần tiên luôn luôn c̣n ở trong kư ức và c̣n hiện ra rơ
ràng nhất, măi măi không phai!
x
x x
Tôi sinh ra đời ở một làng quê nghèo nàn miền
bắc Việt Nam, cách tỉnh lỵ Hưng Yên chừng 20
cây số. Làng tôi cũng như mọi làng quê tiêu biểu
khác, có lũy tre xanh bao bọc quanh làng, chạy dài theo một ḍng nước ở phía trước
làng mà dân làng tôi gọi là cái cừ, nó lớn hơn một
cái lạch, nhỏ hơn một con sông. Phía bên kia là cánh đồng làng rộng bao la tiếp
giáp với những lũy tre xanh theo đường ṿng
cung của những làng bên cạnh. Con đường từ
cuối làng đi ra phải qua một cây đa lớn và một
quán hàng trước khi ra cánh đồng và những làng bên
cạnh. Phía sau làng là một con đê nhỏ chạy dọc
theo làng, hai bên cũng trồng lúa. Một
phía cuối đường đê, cắt ngang bởi một
ḍng sông, có quán nước và con đ̣ đưa khách sang
sông. Phía trên là đường đi tới
các làng khác, vào tới tỉnh lỵ.
Khi tôi lên 7, 8 tuổi, ngoài việc học hành, tôi bắt
đầu được tiếp xúc, tham dự những
sinh hoạt nơi đồng quê. Anh em chúng tôi thường
mang trâu ra đồng, thả cho chúng ăn cỏ rồi
chơi đánh khăng, đánh đáo; nô đùa chạy nhảy
với lũ bạn cùng tuổi cho tới gần chiều
tối mới cưỡi trâu trở về nhà.
Những chiều mùa hè, khi gió nam thổi mạnh,
chúng tôi rủ nhau ra ngoài đồng thả diều.
Chúng tôi thường làm hai loại diều: diều bầu
và diều cốc. Diều bầu h́nh bầu
dục, diều cốc trông như hoa 3 cánh, 2 cánh ngang 1 cánh
đuôi (gọi là diều cốc có lẽ v́ nó giống
như con chim cốc dang hai cánh ra để phơi nắng).
Diều bay lên tới một độ cao nào đó, có gió thổi
mạnh đều th́ bay lượn ở trên không măi cho tới
khi chủ nó kéo xuống, đem về. Nhiều khi nếu
dùng dây diều, chỉ gai không bền, diều căng gió, bị
đứt sẽ bay đi rất xa, có khi bay qua sông, sang
làng bên. Người lớn cũng chơi diều, diều
của họ rất to, có thể mang theo
sáo, 1 chiếc hoặc một bộ 5 chiếc, có độ
lớn và âm thanh khác nhau. Loại diều này, dây làm bằng nan tre vót rất mảnh, nối liền nhau,
cột chặt bằng chỉ gai và cuộn quanh một
khung tṛn h́nh bánh xe. Khi có gió lớn mới thả
được loại diều này và cần hai người
lớn, một người đâm diều lên, một
người chạy với ṿng dây khoác trên vai. Phải khỏe lắm mới giữ được
cho khỏi bị diều lôi đi khi nó lên cao. Khi diều lên cao, gió thổi mạnh, sức
người dù khỏe cũng không thể giữ được
lâu, họ phải đóng cọc lớn xuống đất
rồi cột ṿng dây vào đó. Chú tôi là một
trong những người chơi loại diều này.
Những
đêm mùa hè, giải chiếu nằm ngủ trên sân có gió
mát, dưới bầu trời trăng sao, nghe tiếng sáo
diều - với bộ sáo ngũ âm -
như ru ḿnh vào giấc ngủ tuyệt vời!
Vào
mùa lúa chín, cả một cánh đồng màu vàng nhạt
dưới ánh nắng chiều, từng làn gió nhẹ làm thảm
lúa vàng gợn sóng đến tận chân trời, tới lũy
tre xanh những làng bên, tiếp giáp với nền trời
xanh và những v́ sao mọc sớm, khung cảnh êm đẹp,
thần tiên!
Đàn bà, trẻ con ra ngồi chơi, chuyện tṛ,
nô đùa dưới bóng mát của hàng tre, nh́n ra cánh đồng
với niềm vui tràn ngập. Vụ mùa thu hoạch sắp tới, hứa hẹn nhũng
ngày hạnh phúc, ấm no.
Khi mùa gặt tới, cả cánh đồng làng vui
vẻ, nhộn nhịp. Những buổi chiều mùa
gặt lúa, từng đoàn người kĩu kịt gánh
lúa, xen lẫn với những mục đồng trên ḿnh
trâu trở về nhà, một bức tranh quê thật đẹp,
rộn ră niềm vui! Trước khi về
nhà nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, những
người đàn ông rủ nhau xuống tắm ở phía
cừ cuối làng. Hồi đó tôi c̣n nhỏ,
thấy và coi chuyện đó là b́nh thường khi nh́n họ
thản nhiên cởi quần áo nhảy xuống nước,
xong rồi lên bờ, mặc lại quần áo cũ vào.
Bây giờ tôi nhớ lại mới thấy là kỳ v́ họ
không hề ngượng ngùng (dĩ nhiên là chỉ có đàn
ông, đàn bà không tắm như vậy), cũng không hề
mặc đồ lót và vẫn mặc quần áo cũ!
Giai-đoạn kế
tiếp là đập lúa. Những lượm
lúa được cột liền vào những cái néo làm bằng
hai đoạn tre dài chừng 2 bộ, nối vào nhau bằng
một đoạn dây, trông tựa như vơ khí của Lư Tiểu
Long. Hai người lần lượt
thay phiên nhau đập lượm lúa vào mặt một cối
đá đặt nghiêng. Những hạt
lúa sẽ rời khỏi thân cây lúa, văng ra.
C̣n
nhiều công việc tiếp theo sau
đó như quạt lúa để loại bỏ những hạt
lép, phơi lúa cho khô, xay lúa để lấy gạo, giă gạo
để loại bỏ lớp cám bên ngoài để lấy
hạt gạo trắng, sản phẩm cuối cùng để
nấu cơm.
Khi mùa gặt đă xong, cả cánh đồng chỉ
c̣n trơ gốc rạ. Những con cào cào không c̣n chỗ
nương thân, bay lung tung. Đợi
khi trời mưa xuống là chúng tôi mang chai và vỉ ruồi
ra đồng đuổi bắt cào cào.V́ mưa ướt
cánh nên những con cào cào không thể bay xa được
. Chúng tôi dùng vỉ ruồi, chạy theo,
đập rớt chúng xuống, bỏ vào chai, mang về
rang, ăn với cơm. Cào cào rang với muối và lá
chanh, thêm một chút mỡ, là món ăn ngon tuyệt ở miền
quê, nhất là những con cào cào trứng, ăn thật bùi,
béo ngậy!
Khi trời mưa nhiều, các lạch đầy
nước, chúng tôi thường rủ nhau lấy đất
ngăn nước, đắp bờ từng đoạn
nhỏ rồi tát nước đi để bắt cá.
Tṛ chơi này làm ướt quần áo, bùn đất dính
đầy người, mặt mũi lem luốc nhưng
khi bắt được nhiều cá, thật là vui!
Những thú vui khác như
đi câu cá, thả ống tre bắt lươn, bắt ong
mật, bắt chuồn chuồn, hun khói bắt chuột
đồng…
Vào
dịp Trung-thu,chúng tôi chơi rước
đèn dưới đêm trăng. Đèn xếp, đèn ngôi
sao, đèn cá chép… Đèn nào cũng có một
cây nến ở bên trong.
Vào mùa trăng,những
thanh niên nam nữ trong làng thường tổ chức hát trống
quân. Họ đào một cái hố sâu dưới
mặt đất, đường kính chừng nửa
thước. Một mảnh gỗ đậy
lên miệng hố, một sợi dây thừng căng ngang
qua mặt hố và được cột chặt vào hai cột
đóng xuống đất ở hai bên. Một
đoạn tre đội dây thừng lên cao và đứng
trên mảnh gỗ. Đoạn tre cao th́
dây thừng căng thẳng và khi lấy dùi tre gơ vào dây thừng
hai bên, dây phát ra tiếng kêu “thùng thùng” (tựa như dây
đàn và thùng đàn).
Ngoài
vụ chiêm và vụ mùa, làm lụng vất vả, bận rộn
th́ người dân quê sống vui vẻ, thoải mái với
những ngày hội hè, đ́nh đám; chỉ những dịp
đó họ mới được ăn uống thịt
thà khi làng mổ lợn, mổ trâu.
Vui thích nhất là vào dịp Tết. Nhà tôi thường
mổ heo vào hôm 29 tết. Thịt heo được
chia làm nhiều loại để làm gị lụa, gị thủ,
gị b́, để gói bánh chưng, xào,nấu…
Anh em chúng tôi chạy lăng xăng hết
chỗ nọ tới chỗ kia. Thich nhất
là lúc giă gị. Thịt nạc được
bỏ vào cối đá, dùng chày lớn để giă thịt
cho tới khi nát nhuyễn, cho nước mắm vào, trộn
đều, cuối cùng, dùng lá chuối để gói thành
cái gị. Tiếng giă gị lốp bốp nghe thật vui tai. Anh em chúng tôi cứ chầu
chực bên cạnh những người giă gị, đợi
khi có miếng thịt nát nhoét nào bắn ra là vội vét lấy
ngay, góp dần lại, lấy lá chuối gói thành một cái
gị nhỏ xíu.
Chiều 30 Tết th́ gói
bánh chưng. Vật liệu
gồm có gạo nếp đă ngâm nước, đậu
xanh cũng đă ngâm nước, thịt ba chỉ trộn
muối và hạt tiêu. Lá để gói bánh chưng là lá
rong, rộng chừng 1 bộ, dài hơn 2 bộ, mềm dẻo
và không dễ bị găy, rách. Thày tôi gói bánh chưng
rất khéo, rất chặt tay, vuông vức và đều. Những
chiếc bánh chưng mới gói, màu lá xanh
tươi, dây lạt tre màu trắng trông mới đẹp
mắt làm sao! Anh em chúng tôi cũng gói cho ḿnh một
chiếc nhỏ. Để thịt và đậu vào giữa
gạo ở trên lá
rồi gói thật là khó, không thể gói chặt
và vuông theo ư ḿnh được. Cuối cùng, chiếc bánh ra
h́nh khối chữ nhật và nó mềm xèo!
Bánh
chưng mới gói được xếp
vào một thùng sắt lớn, đổ nước vào,
đặt trên bếp giữa sân, chất củi đun ở
dưới. Phải ninh bánh hàng 5, 6 giờ
đồng hồ, thêm nước nhiều lần, thường
là qua giao thừa mới chín được.
Lễ cúng giao thừa vào đúng nửa đêm 30,
để “tống cựu, nghinh tân”, đón ông bà, các cụ
về và đốt pháo mừng năm mới.
Sáng mồng một Tết thường là thủ
tục xông nhà và xuất hành. Người
ta thường chọn những người có tuổi, hiền
lành, phúc đức, mau mắn và có nhiều con cái để
nhờ xông nhà ḿnh, lấy hên. Chủ nhà thường
xem bói hoặc xem lịch để biết hướng
đi nào hợp với tuổi ḿnh mà xuất hành, mong cho cả
năm được may mắn.
Sáng mồng một Tết, chả cần ai gọi,
anh em chúng tôi cũng dậy thật sớm để
được mặc quần áo mới, được
phát vốn, mừng tuổi (phát-vốn là ĺ-x́).
Khung cảnh ngày Tết thật là nhộn
nhịp, nhiều màu sắc, khác hẳn với trong năm,
chỉ có một màu nâu hoặc đen. Trong nhà, ngoài ngơ rộn ră
tiếng cười đùa, chào hỏi nhau, tiếng pháo nổ
đ́ đùng khắp nơi. Người
ta chúc tụng nhau đủ mọi lời tốt đẹp.
Câu chúc thông thường nhất là: "Chúc ông bà giàu bằng
ba, bằng bốn năm ngoái, đầu năm sinh con gái,
cuối năm sinh con trai”.
Thích
nhất là lúc được mẹ tôi hoặc chị tôi
cho đi theo chúc Tết họ hàng v́ sẽ
được ăn bánh kẹo và được tiền
phát vốn. Hồi đó tôi không thấy tiền
giấy, chỉ có đồng xu và đồng trinh (trinh bằng
nửa xu).
Nhà
nào nhà nấy, bàn thờ ông bà lúc nào cũng khói hương
nghi ngút, thức ăn, trái cây la liệt! Những ngày Tết
ai cũng được ăn nhiều,
v́ vậy mới có câu: "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết".
Ba ngày Tết qua mau. Ngày mồng
3 là ngày hóa vàng tức là đốt vàng mă để tiễn
đưa ông bà, các cụ ra đi. Một nỗi buồn
sau những ngày vui, cũng là nỗi buồn sắp phải
xa nhà ra tỉnh học!
Từ năm 6, 7 tuổi, mẹ tôi đă gửi
chúng tôi vào tỉnh học, trọ ở nhà bác tôi, một
năm chỉ về nhà hai lần là dịp Tết và nghỉ
hè. Mẹ tôi phải bán nhiều thóc lúa
để cho chúng tôi đi học. Từ làng vào tỉnh
lỵ chỉ cách chừng 20 cây số mà sao ngày ấy tôi thấy
xa xôi quá v́ chúng tôi đi bộ, mất hơn nửa ngày mới
tới. Mẹ tôi thường đưa chân chúng tôi trên con
đường đê sau làng. Mẹ tôi dặn ḍ anh cả
tôi (lớn hơn chúng tôi chừng 5,6 tuổi) và chúng tôi
đủ điều. Đưa chân hàng cây số mẹ
tôi mới quay về. Đi được một đoạn
đường tôi lại ngoái cổ nh́n, mẹ tôi c̣n
đứng đó. Tôi nh́n lại nhiều lần cho tới
khi mẹ tôi khuất bóng mới thôi.
Sau
này mẹ tôi thường kể lại rằng mỗi lần
đưa chân chúng tôi vào tỉnh học, khi về nhà, mẹ
tôi hết đứng lại ngồi, lên nhà trên, xuống
nhà dưới, bụng bồn chồn, nôn nao, không làm ǵ
được cả!
Tôi
cảm phục sự can đảm của mẹ tôi. Tôi
kính yêu, biết ơn và thương nhớ mẹ tôi vô vàn!
Một bà mẹ quê Viêt
Sau vài ba năm ở bậc
tiểu học, biến cố 1945, chúng tôi về quê học
tiếp lớp nh́, lớp nhất ở những làng bên và
chúng tôi lại gần gũi, gắn bó với những sinh
hoạt đồng quê.
Năm
1950, chúng tôi lại “trở về thành”, vào bậc trung học.
Trong những năm này, v́ thời cuộc nên chúng tôi ở
luôn tỉnh mà không trở về làng nữa cho tới 1954,
vừa xong trung học phổ thông, chúng tôi cùng gia đ́nh
vào
Tôi
nhớ khi vào
Những năm cuối cùng
của bậc Trung học, gia đ́nh tôi thay đổi chỗ
ở nhiều lần nên tôi không có ư niệm sâu đậm
ǵ về quê hương mới. Tôi vào Đại-học
sư-phạm, ra trường và bắt đầu nghề
dạy học, ở Cà Mau 4 năm rồi về Trung học
Thủ Đức. Thế rồi biến cố 75, lại
một lần nữa ra đi, quê hương xa vời vợi!
Lần
đầu tiên tôi xa đất nước. Con tàu viễn xứ
đưa tôi dời khỏi Việt
“Nhật mộ
hương quan hà xứ thị,
Yên
ba giang thượng sử nhân sầu”.
Quê
hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên
sông khói sóng gợi buồn ḷng ai.
(Tản-Đà
dịch)
x
x x
Những năm tôi sống ở
Hoa Kỳ, nhận nơi này làm quê hương, thật ḷng
mà nói, chẳng có một chút t́nh cảm đậm đà ǵ.
Tôi nhớ cách đây chừng 15, 20 năm, có lần họp
mặt cựu giáo sư và học sinh Chu Văn An, thày Lăng,
tổng giám thị, từ Úc châu qua, lên đọc một
bài thơ do ông sáng tác, tôi chỉ c̣n nhớ một câu cuối:
“Đất nước này
đâu có phải quê tôi”.
Thày
Lăng cũng đă mất nhiều năm rồi, thày hẳn
cũng đă được trở về quê hương của
ḿnh.
Nhũng
lúc rảnh rỗi tôi vẫn nhớ về quê cũ và những
kỷ niệm thời thơ ấu. Dù nhắm mắt lại,
h́nh ảnh làng cũ với lũy tre xanh, cây đa, cánh
đồng lúa vàng vẫn hiện lên đậm nét. Một
bài hát mà tôi cho là hay nhất, gây cảm xúc mạnh nhất
đối với tôi, đó là bài “Chiều Quê” của Hoàng
Quư: “Quê nhà tôi, chiều khi nắng êm đềm, chạy dài
trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca. Bao người ra ngồi hay
đứng bên thềm, chuyện tṛ chung với nhau, đời
sống thần tiên”. Lời ca thật b́nh dị, gợi cảm,
nhắc nhở nhiều kỷ niệm, h́nh ảnh; một
vùng trời quê hương, cả một thời thơ ấu!
Một bài hát nữa, cũng
rất dễ làm tôi thả hồn về quê cũ, bài
“Hương Xưa” của Cung Tiến:
“C̣n đó bóng tre êm ru, c̣n
đó gốc đa hẹn ḥ, c̣n đó những đêm sao mờ
hồn ta mênh mang nghe sáo vi vu.” Đó cũng là nỗi niềm
thương nhớ quê hương của một thời
hoàng kim đă xa rồi mà nay chỉ c̣n trong hoài niệm.
Những
năm đầu tiên sống ở Hoa Kỳ, tôi nghĩ hy
vọng trở về quê hương, làng cũ thật xa vời,
vô vọng. Nhưng rồi hoàn cảnh dần dần đổi
thay. Chừng 20 năm sau đă có một số người
về Việt
Sau
nhiều năm mong đợi, rồi cũng đến
ngày trở về, cảm giác thật là nôn nóng, hồi hộp!
Chúng
tôi từ Hà Nội về Hải Dương để gặp
một người bạn cùng làng, từ hồi c̣n để
chỏm và đi học với nhau đến hết Trung học
đệ nhất cấp. Chúng tôi mướn một chiếc
xe đi về làng. Dọc đường, nhận xét
đầu tiên của tôi là những làng dẫn đến
làng tôi đều trơ trụi, không hề thấy lũy
tre xanh nào cả! Khi xe ngừng lại và bạn tôi nói:
"đă đến rồi đây", tôi ngạc nhiên tự
hỏi, quê nhà ḿnh đây sao? Lũy tre xanh bao quanh làng ngày
xưa không c̣n nữa, nhà trệt nhỏ xíu, xây lô nhô đủ
h́nh dạng. Đi khắp mọi nơi mà tôi không nhận
ra một di tích của ngày xưa. Cây đa trước
làng, lối ra cánh đồng không c̣n nữa, nhánh sông chảy
vào làng và cả con sông đă bị lấp rồi và dĩ
nhiên con đ̣ ngang cũng đâu c̣n nữa!
Tôi
buồn ngẩn ngơ v́ sự thay đổi quá nhiều,
đến độ tàn nhẫn! Tôi chợt thông cảm nỗi
buồn và niềm hoài cổ của thi sĩ Trần Tế
Xương qua bài “Lấp sông
Sông kia rày đă nên
đồng,
Nơi
làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai.
Đêm đêm nghe
tiếng ếch bên tai,
Giật
ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣.
Khu
nhà tôi ở ngày xưa, nơi tôi sinh ra đời và lớn
lên, bây giờ đă chia năm xẻ bảy, nhà những
người khác cất lên ở đó. Cây nhăn gốc to bằng
người ôm đă bị chặt đi, hai cái ao trước
và sau nhà đều bị lấp mất rồi!
Tôi nhớ, gần bến đ̣
phía sau làng có một cái miếu thờ thần. Cạnh miếu
có một cây đa cổ thụ, gốc đa rễ chằng
chịt, người làng thường trông thấy những
con rắn đen sặc sỡ, có mào ở đầu, họ
bảo là rắn thần. Gần đó, trên bờ sông có một
cây vừng lớn, có những sợi dây hoa màu hồng buông
rủ xuống. Chúng tôi thường ngắt những dây hoa,
buộc thành ṿng, đeo quanh cổ. Cạnh đó là một
cây sung, thân cây lớn, nằm là đà ra tới giữa
sông. Chúng tôi đi tắm sông, thường ngắt cành sung,
giả làm dù rồi nhảy từ trên cây xuống, người
trần trụi!
Giờ
đây cái miếu, cây đa, cây vừng, cây sung và cả con
sông đều không c̣n nữa. Nh́n nơi nền miếu cũ,
trạnh nhớ tới bài thơ của bà Huyện Thanh
Quan:
Lối xưa xe ngựa,hồn
thu thảo,
Nền cũ lâu
đài,bóng tịch dương.
(Thăng Long thành hoài cổ)
Cảnh
cũ đă như vậy, người xưa th́ kẻ mất
người c̣n. Anh em con chú bác đều già cả. Tuy họ
có hơn tuổi tôi một chút, nhưng sao trông họ, tôi
không nhận ra, râu tóc bạc trắng, bờm xờm, dáng
đi lụ khụ, thần sắc lờ đờ!
Tôi
t́m gặp lại một người bạn hàng xóm thưở
xưa. Hồi hai đứa chơi với nhau, có lần
tôi theo anh ta lên đầu làng bắt ong. Anh ta trèo lên một
cây rất cao, có hoa để bắt những con ong đang
hút mật (loại ong này to bằng ngón tay cái, có hai màu
đen và đỏ, vặn đầu nó rời khỏi
thân, sẽ rút ra được một bọng mật trắng,
to bằng giọt nước). Anh ta tay không nhón bắt từng
con, vặt cánh rồi ném xuống cho tôi lượm. Khi trèo
xuống khỏi cây, anh ta nói với tôi là có lẽ cây này có
ma và bảo tôi bắt chước anh ta vạch quần ra,
đái vào tay rồi xoa lên mặt để trừ ma! Tôi sợ
quá, làm theo, chẳng ngại ǵ bẩn và khai! Bây giờ tôi
t́m và gặp lại được anh ta, một ông cụ
già hơn tôi; tôi bèn nhắc lại kỷ niệm ấy,
tưởng rằng ông cụ sẽ bật cười
thích thú, ai ngờ ông cụ chỉ ậm ừ cho qua chuyện,
dường như không nhớ ǵ cả! Cũng đă
hơn 60 năm rồi, nhưng sao tôi c̣n nhớ rơ?
Bây giờ người ta
không ch́ trồng lúa như ngày xưa mà xen lẫn những
ruộng ngô, khoai, dưa và cả mía nữa, nên cánh đồng
trông không c̣n đồng nhất một màu.
Dân
làng bây giờ cũng không hoàn toàn sống bằng nghề
nông. Họ làm nhiều nghề khác nhau: thợ mộc làm
bàn ghế, đóng giường, tủ; thợ nề xây cất
nhà cửa, mua bán vật liệu…
Phải
công nhận là bây giờ họ khá giả hơn ngày trước
và chắc chắn họ không muốn trở lại nếp
sống ngày xưa.
Ngày
xưa, làm ruộng vất vả, chân lấm tay bùn. Ngoài hai
vụ lúa, thời gian c̣n lại th́ rảnh rang: "Tháng
giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội
hè". Mức thu hoạch mùa màng cố định, năm
nào cũng như năm nào, cả vậy suốt đời,
đời nọ sang đời kia. Họ an phận thủ
thường. Một xă hội như vậy làm sao mà tiến
bộ, giàu mạnh được? Vậy th́ sự thay
đổi bộ mặt nông thôn là điều cần thiết,
tất yếu.
Nhưng tôi không quan tâm tới
điều đó. Tôi chỉ thấy không có lũy tre xanh mà
chỉ có những cột điện, dây điện chằng
chịt th́ không c̣n là làng quê nữa. Bây giờ chẳng có một
con trâu, nông nghiệp đă được cơ khí hóa, cày bằng
máy. Bây giờ không c̣n con sông chảy vào làng, không người
chài lưới, làm sao c̣n có cảnh:
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gơ sừng
mục tử lại cô thôn.
(Bà Huyện Thanh Quan)
H́nh
ảnh thân yêu mà tôi hằng ấp ủ và mong thấy lại
khi trở về đă không c̣n nữa!
Tôi
thẫn thờ vói chiếc video camera, mang về để
mong ghi lại hết h́nh ảnh quê hương, đành buồn
nản cất đi.
Tôi
nhắm mắt lại để mang ra từ trong kư ức,
quê hương tôi ngày xưa: Từ cánh đồng bao la, từ
mái đ́nh làng, những con đường nhỏ quanh co
đi vào xóm cho tới những bờ tre, bụi chuối,
ao rau muống, giậu mồng tơi, cây cam, cây bưởi,
hàng cau, giàn mướp…Tất cả đều tầm
thường, b́nh dị, nhưng sao mà quen thuộc, thân yêu!
Chúng như có linh hồn và quá gần gũi với ḿnh qua
suốt cả một thời thơ ấu, và hơn nữa,
có một cái ǵ huyền bí, thiêng liêng v́ đó là nơi chôn
nhau cắt rốn, quê cha đất tổ.
Người
nói về quê hương ḿnh, chắc chắn là có những
nhận xét chủ quan. Ai chẳng cho rằng quê
hương của ḿnh là đẹp hơn cả. Dưới
con mắt người khác, chỉ là một cái nh́n vô cảm,
nhưng đối với ḿnh lại là cả một trời
thương yêu, một vùng kỷ niệm.
Vậy
mà nay những h́nh ảnh đó không c̣n nữa! C̣n đâu lũy
tre làng rủ bóng mát buổi trưa hè, c̣n đâu cánh đồng
lúa bát ngát một màu, c̣n đâu gốc đa nơi trai gái hẹn
ḥ, c̣n đâu con đ̣ đưa khách sang sông!
Ôi!
sao tôi cứ nhắc đi nhắc lại những h́nh ảnh
này? Có người đọc sẽ nói: "biết rồi,
khổ lắm, nói măi!" Nhưng tôi cứ muốn nói v́
quá luyến tiếc, như muốn cố níu kéo lại những
ǵ đă mất.
Tôi
có tâm trạng của một kẻ đi t́m lại dĩ
văng mà theo luật đào thải đă không c̣n, theo ḍng thời
gian, đă trôi đi. Một trời quê hương, một
thời thơ ấu, trắng tay kỷ niệm!
Tôi
tự hẹn ḷng, sẽ không bao giờ trở lại chốn
xa lạ này để phải chịu đựng nỗi
buồn mất mát lớn lao, như nỗi buồn của
một kẻ mất quê hương.
Với
tâm trạng đó, tôi trở vào
Ngày
tôi ra đi, cả một thế hệ hiện tại c̣n
chưa ra đời, ngày tôi trở lại, họ đă
ngoài 30 tuổi, đối với tôi hoàn toàn xa lạ, tôi cảm
thấy ḿnh lạc lơng! Tôi đi t́m lại cảnh cũ,
người xưa.
Đường
phố Sài G̣n bây giờ đông người quá, xe cộ
đủ loại, chen lấn nhau mà đi, tiếng người
huyên náo, c̣i xe inh ỏi!
Ngày
xưa, những buổi trưa hè, tôi đạp xe đạp,
thong thả qua trường Gia Long đường Phan Thanh
Giản hay qua những biệt thự ở đường
Tú Xương vắng vẻ, dưới những hàng cây
cao, chỉ nghe thấy tiếng lá rụng và tiếng ve sầu.
Chỉ cần lái xe một tay thoải mái, tay kia buông thả
với điếu thuốc lá. Bây giờ, những con
đường Sài G̣n, bạn không thể lái xe một tay,
phải dùng cả hai tay để c̣n len lách, sát cánh với
những xe khác mà đi. Khi bạn đi bộ mà phải
qua đường mới là một chuyện đứng
tim, đau đầu! Không thể chờ cho tới khi vắng
xe v́ sẽ không bao giờ vắng cả, họa chăng là
một vài giờ! Ḍng xe cứ ào ào đi tới! Khi có
người nhà ở địa phương đi cùng, th́
họ kéo đại tôi sang đường, chặn đầu
đoàn xe mà sang. Họ nói, xe nó phải tránh ḿnh chứ ḿnh
không phải tránh xe. Mà quả như vậy, những xe hai
bánh lách sát qua ḿnh tôi, xe bốn bánh cũng lách hoặc đi
chậm lại. Qua bên kia đường rất lẹ,
nhưng phải vài lần hú vía! (ḿnh hú vía thôi chứ
người nhà tôi th́ tỉnh bơ!) Lối qua đường
như vậy quả là thực dụng, tôi thấy mọi
người đều làm như thế. Muốn sang
đường là sang ngay, không chờ đợi v́ chờ
đợi th́ chẳng bao giờ sang đươc. Thực
tế là như vậy nhưng tôi thấy cách đó quả
là coi thường mạng sống. Họ không dám đâm xe
vào ḿnh nhưng nếu rủi mà họ không tránh được
là ḿnh lănh đủ! Trường hợp đó có tỷ lệ
xảy ra rất cao! Tính mạng con người ở
đây h́nh như hơi mong manh!
Vườn
Tao Đàn đông người, nhộn nhịp từ sáng sớm.
Người ta ra đó để tập thể dục, từng
đoàn người tập chung với nhau. Những ngày ở
Sài G̣n tôi vẫn ra đó đi bộ. Vườn Tao Đàn
ngày nay không c̣n vắng lặng như xưa nữa! Tôi nhớ
tới bài “Trả lại em yêu” của Phạm Duy ca ngợi
vẻ thơ mộng của Sài G̣n: "Trả lại em
yêu, khung trời đại học, con đường Duy
Tân, cây dài bóng mát, buổi chiều khuôn viên, mây trời xanh
ngắt…” Con đường Duy Tân giờ đây, dù c̣n cây
dài bóng mát, nhưng người ta đă phá tan sự trầm
lặng, tịch mịch của nó. Khung trời đại
học, ghế đá công viên không c̣n nhiều màu sắc
thiên nhiên, không c̣n vẻ thơ mộng t́nh tứ nữa. Ở
đâu cũng thấy những người là người!
Số người nhiều gấp 10 lần ngày trước
mà!
Tôi
t́m lại những con đường đă đi “bát phố”
ngày xưa. Đường Pasteur có hàng nước mía Viễn
Đông, xế trước cửa có một người
Trung Hoa bán hàng rong với mấy món mà tôi khoái: dồi
trường, tim gan, bao tử phá lấu, được cắm
vào bằng những cái tăm tre, tăm gỗ. Đường
Nguyễn Huệ cửa thương xá Tax, chiều nào cũng
có món thịt ḅ khô với đu đủ bào, rau thơm
trong một chiếc đĩa nhôm. Người bán hàng, một
tay là chai tương ớt đỏ, tay kia là chai nước
giấm đường và tỏi, cùng một lúc dốc
ngược hai chai, đổ vào đĩa. Thịt ḅ khô,
gan ḅ khô, đu đủ, nước giấm đường
tỏi ăn thật là tuyệt! Những nơi đó, bây
giờ không c̣n, chắc là hàng rong bị cấm ở mặt
tiền thành phố.
Tôi
lại động ḷng hoài cổ rồi! Bắt chước
Nguyễn Đ́nh Liên mà than:
"Những
người muôn năm cũ,
Hồn
ở đâu bây giờ?"
Phải công nhận, Sài G̣n
bây giờ trù phú hơn xưa nhiều lắm. Hiện tại
cũng là lẽ tất yếu. Đây là sự tiến bộ,
phồn thịnh, nhưng sao tôi vẫn thích cái “ngày xưa” ấy.
Hoài niệm những ǵ mà nay chỉ c̣n là “vang bóng một thời”,
t́m lại quá-khứ mà tôi cho là thời hoàng kim ấy, tựa
như đi t́m ảo ảnh, lội ḍng nước
ngược!
Tôi
nhận thấy Sài G̣n ngày nay không c̣n thích hợp với ḿnh
nữa rồi, cảnh cũng như người. Bạn
bè ngày xưa, dù là thân thiết, bây giờ gặp lại,
tuy vui vẻ bề ngoài, nhưng tôi vẫn cảm thấy
có một cái ǵ đó, gượng gạo, cách biệt, khó
diễn tả thành lời!
Ta về tắm ao ta không
được th́ đành về tắm ao người! Tôi
về lại Hoa Kỳ. Tôi suy nghĩ nhiều ngày về sự
mất mát cùng ḷng hoài niệm và nhận thấy điều
này: Quê hương đẹp, Sài G̣n đẹp ngày xưa,
người ta không muốn giữ hay v́ hoàn cảnh mà không
giữ được, họ làm mất nó đi. Họ
thay thế cái đẹp mơ hồ, mông lung mà tôi cho là thần
tiên, thơ mộng bằng những lợi ích thực tế,
những giá trị vật chất cụ thể. Họ bằng
ḷng với cái hiện tại và không hề nuối tiếc,
hoài niệm dĩ văng. Hơn nữa, h́nh ảnh dĩ văng
đó bị thay thế, biến đổi dần dần
đồng thời cái mới cũng tồn tại dần
dần cho đến ngày nay. Quá khứ bị đào thải,
xóa mờ hẳn khiến người ta không c̣n nhớ nữa,
chẳng hề để tâm, hoài niệm. Những h́nh ảnh,
những kỷ niệm không c̣n ở trong kư ức của họ.
C̣n tôi, không chứng kiến, trải qua những thay đổi
đó, kư ức ngày xưa thế nào bây giờ vẫn thế,
c̣n nguyên vẹn.
Vậy th́ chính họ mới
là những kẻ mất quê hương thần tiên, mất
Sài G̣n thơ mộng dù rằng họ chẳng có nỗi buồn
mất mát. Tôi mới chính là ngưới c̣n giữ
được h́nh ảnh của quê hương xưa, nét
đẹp của Sài G̣n cũ, nhắm mắt lại tôi vẫn
c̣n thấy được.
V́
ở trong thực tế nó không c̣n nữa nên tôi càng quư, cố
gắng giữ ǵn và sẽ giở trang kư ức, ôn lại
luôn luôn để được gần gũi cho tới
những ngày cuối của cuộc đời.
Cầu
mong cho tôi sẽ không bị bệnh lăng trí để c̣n
được sống với dĩ văng.
Tôi
vẫn c̣n quê hương thần tiên thuở xưa.
Tôi vẫn c̣n Sài G̣n nên
thơ ngày cũ.
Trần
Ngọc Giới.