Lời Người Viết:

 

Bài này đă được viết trong bối cảnh những năm 1996 - 1997.  Xin được giữ nguyên văn như một phiếm luận dù vài chi tiết trong bài có thể đă mất thời gian tính (thí dụ như về việc sử dụng thẻ tín dụng ở Pháp và ở Mỹ hay về luật  quảng cáo trong Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu thời đó). Bài đă đăng trên nguyệt san Thế Kỷ 21 xuất bản tại Nam California vào tháng 7/2001, kư dưới một tên khác. Gửi vào Diễn Đàn Trung Học Thủ Đức tháng 6/2008. Xin được ghi chú nơi đây để tránh mọi ngộ nhận đạo văn.

 

                                                                                                                         Nguyễn Hưng

 

--------------------------

 

 

ĐI TÂY, ĐI MỸ

 

 

Dạo c̣n sống bên Pháp, tôi vẫn thường có dịp đón bà con bạn bè ở Mỹ sang chơi. Có người từ miền Đông, có người từ miền Tây, có người từ Texas, cũng có người từ Georgia hay Florida. Lâu ngày không gặp, vui th́ khỏi nói.

 

Nhà tôi ở ngoại ô phía đông nam Paris, nhưng chỉ cách cửa ngơ vào Paris có chừng mười cây số. Nếu lấy xa lộ A4 vào giờ đi làm buổi sáng th́ có khi mất đến một tiếng; c̣n như rảnh rỗi đi chơi tà tà vào khoảng giữa trưa th́ chỉ thoáng độ mười lăm phút là đă đến Porte de Bercy. Từ đó, cứ dọc theo hữu ngạn sông Seine, qua cầu Austerlitz, rồi theo tả ngạn mà vào đến tận nhà thờ Đức Bà là trung tâm thành phố. Những hôm không vội vă tôi thích dùng đường nhỏ, băng qua khu rừng Vincennes từ phía bờ sông Marne. Bên kia cánh rừng đă là đường phố Paris. Những sáng mùa thu đi làm, nếu bạn chiụ khó dậy sớm hơn chừng nửa giờ để lái xe qua những con đường rừng ngập lá vàng với mặt hồ se lạnh, bạn sẽ có một cảm giác dị kỳ khác hẳn với cái nhịp đời vội vă của người dân phố thị. Bạn cũng có thể bị kẹt xe ngay giữa những con đường rừng ấy - bởi v́ thiên hạ cũng có hồn thơ chứ đâu riêng ǵ bạn - nhưng là cái kẹt xe giữa sương sớm mù mù và lá vàng rơi lả tả. Ngày làm việc chắc hẳn cũng mang theo một chút gió êm đềm.

 

Thật đáng tiếc là bà con bè bạn tôi chưa bao giờ được nh́n mùa thu Paris như thơ Cung Trầm Tưởng. Họ thường đi chơi vào mùa hè, giữa tháng bảy và tháng tám. Mùa hè Paris trời nóng không thua ǵ miền nam California. Hầm xe điện ngột ngạt. Vườn Luxembourg bụi khô cây cỏ. Đường phố th́ vẫn tấp nập những người là người, phần đông là du khách. Một nửa Paris đă đi nghỉ hè. Tháng tám, nhiều công sở đóng cửa hay thu ngắn giờ làm việc. Những ṿi nước phun có cả người tắm. Thỉnh thoảng, nếu bạn hên th́ có thể được dịp chiêm ngưỡng vài cô du khách người Ḥa Lan hay người Đức khoe bộ ngực trần ung dung ngồi phơi nắng giữa quảng trường Trocadéro trước tháp Eiffel cho đến khi có người cảnh sát đến bên cạnh, nhẹ nhàng mời họ che đậy thêm đôi chút. Nhiều lần tôi đă chứng kiến anh cảnh sát đứng năn nỉ khá lâu, mà cô đầm yêu thiên nhiên vẫn hiên ngang trơ gan cùng tuế nguyệt. Luật pháp ở xứ sở của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền không quá khắt khe về cái sex như ở Mỹ. Nói chung, các nước có nền văn hóa La Tinh đều mang một quan niệm phóng khoáng về thể chất và tính dục, khác với quan niệm bảo thủ của các nước có nguồn gốc Anglo Saxon. Chả thế mà những bức tuợng đẹp nhất từ thời cổ Hy Lạp qua đến thời kỳ phục hưng của các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa La Tinh đa số đều là những bức tượng khoả thân. Bờ vai trần và bộ ngực kiêu căng của những pho tượng trắng trong vườn Luxembourg không hề làm vương vất nét trần tục trong cái nh́n nghiêm trang và xiêm y kính cẩn của một tác phẩm nghệ thuật hàng vương giả.

 

Nhưng tôi không có dịp ca ngợi lâu những pho tượng trắng nên thơ của Anatole France khi dẫn bà con tôi đi thăm vườn Luxembourg trong mùa hè. Bởi v́ các bà chị tôi c̣n có một mối bận tâm vô cùng to lớn khác. Vườn Lục Xâm Bảo không có chỗ đi giải! Ba Lê không có cầu tiêu công cộng! Có, nhưng muốn đi th́ phải trả tiền. Rẻ thôi, có nơi một quan, có nơi hai quan, bỏ đồng bạc vào khe nhỏ trên cửa th́ mới mở được mà vào. C̣n như đi free th́ hiếm lắm. "Nước Tây nghèo khổ đến thế cơ à, đến đi đái mà cũng phải đóng thuế!" Ừ nhỉ, nghĩ cũng lạ, sao nó đem bạc triệu sang cả Hà Nội mà cho không, thế mà xả ga có một cái cũng chém đồng bạc! Hay là nó thu thuế ấy mà đem đi cho các nước nghèo?

 

Sự thật, suốt mười lăm năm sống ở Pháp, tôi chưa bao giờ phải bỏ ra xu nào cho những cái máy tè ấy cả, họa chăng chỉ có một lần phải áp tải thằng cháu du khách vào đấy mà thôi. Để tôi giải thích thêm cho bạn khỏi hiểu lầm. Tôi gọi là "máy", v́ cầu tiêu công cộng ở đường phố Paris không phải là những dăy nhà vệ sinh như ta thường thấy trong các trung tâm thương mại, mà là những cabines nhỏ bằng vật liệu nhẹ, sơn màu beige nhạt, không lớn hơn cái trạm điện thoại công cộng là mấy. Bên trong là cầu tiêu hóa học và các vật dụng bằng nhôm trắng xám khiến vào đấy bạn có cảm tưởng như đang ở trong một con tàu vũ trụ. Không bỏ tiền th́ cửa không mở cho vào là đương nhiên rồi; nhưng có nơi, không đạp nút dội cầu th́ cửa không mở cho ra nữa mới tức! Thằng cháu du khách lên sáu làm ǵ dám phiêu lưu vào đấy một ḿnh?

 

Bà con tôi sống lâu bên Mỹ có thói quen đi mua sắm ở các trung tâm thương mại. Khi đến mall sau một đoạn freeway dài là chạy ù vào chỗ ấy trước đă; xong trước khi về lại ghé thêm lần nữa. Có khi shopping lâu th́ ra vào đến quen mặt nhau ở đấy. Cho nên khi phải làm du khách ở một nước không có tự do giải phóng th́ một trăm cái tháp Eiffel hay một ngàn cái viện bảo tàng Louvre cũng là điều không đáng kể. Không hiểu sao sống lâu ngày bên Pháp mà tôi không nhận ra điều thiếu sót ấy cho đến khi có dịp tiếp đón bạn bè. Trăn trở măi với tiền đề không câu kết luận, tôi đành ngớ ngẩn đem hỏi những người bạn Pháp thân thiết nhất, rằng sao nước Tây không có tự do phóng uế? Câu trả lời thật đơn giản, thuần dân tộc tính mà cũng rất kinh tế học, rằng dân Tây không có vụ đái đường! Sáng dậy th́ đi ở nhà, đến sở th́ đi ở sở, trưa ra quán ăn th́ đi ở quán, chiều lang thang khu La Tinh th́ cũng vào cà phê mà đi, tối th́ lại về nhà! Không có cầu th́ cần quái ǵ cung, cho nên không cần xây cầu tiêu công cộng. Thế c̣n các máy tè kia? Đấy là một kiểu mẫu tượng trưng cho sự hài ḥa của nhịp phát triển kinh tế! Chẳng qua là kỹ nghệ du lịch Tây gần đây lên mạnh, mỗi năm đón hàng chục triệu du khách bốn phương. Cứ tính trung b́nh mỗi du khách có cái nhu cầu bất ngờ ấy một lần mỗi ngày thôi là hàng năm đă thu hàng trăm triệu. Du khách đâu có nộp thuế lợi tức cho quan thuế Tây, th́ tội ǵ nhà nước bỏ tiền bỏ chổi ra mà quét dọn không cho họ? Bên Mỹ, các đại học công lập c̣n phân biệt giá học phí rẻ dành cho dân đóng thuế tiểu bang ḿnh, c̣n dân tiểu bang khác là chém thẳng tay như người ngoại tộc. Học mà c̣n thế, nữa là chuyện đi tè, sao lại phàn nàn là không có tự do? Tôi nghe ra mà ngao ngán quá!

 

Đời sống đưa đẩy cho tôi rời Âu Châu sang định cư ở Mỹ. Tôi đến quận Cam miền nam California và yêu mến vùng đất này như đă từng yêu mến mấy con đường loanh quanh của quận 13 Paris, như hàng trăm ngàn người Việt tha hương khác yêu mến nơi họ dừng chân. Ở đây không có mùa đông, cũng không có lá vàng mưa thu qua những con đường rừng thơ mộng. Ở đây có bờ biển ngút ngàn và xa lộ đi hoài không thấy đến. Ở đây có phở, có bánh tôm, có tiệm kim hoàn Việt Nam thuê người Mỹ mang súng gác, có xe Lexus chữ vàng chói lọi, có cụ già đội nón lá đi ngoài đường miệng nhai trầu móm mém. Sau một thời gian vất vả như mọi người di cư khác, rồi tôi cũng kiếm được một việc làm, đời sống cũng tạm ổn định. Và tôi lại có dịp đón tiếp người bạn đầu tiên từ Pháp đến thăm.

 

Từ phi trường Los Angeles về đến chỗ tôi ở cách khoảng bốn mươi miles theo xa lộ 405. Hôm ấy là một ngày chủ nhật. Muốn cho bạn tôi được chiêm ngưỡng cái to rộng của thành phố lớn thứ nh́ nước Mỹ, tôi lái xe ṿng xuống downtown, và trở về bằng xa lộ số 5 khi trời đă xế chiều. Bạn tôi thật mệt mỏi sau một chuyến bay dài, nhưng cũng không dấu vẻ măn nguyện của một nhà thám hiểm lần đầu tiên đặt chân đến miền viễn tây Châu Mỹ.

 

Khi chúng tôi về đến quận Cam th́ trời đă xế chiều. Tôi rủ anh ghé vào khu Bolsa t́m cái ǵ ăn tối. Tôi mời anh thưởng thức món bún chả và bánh tôm Cổ Ngư ở một tiệm mà tôi rất thích. Bánh tôm chiên thật gịn, không nhiều khoai, mà cũng không nhiều tôm quá. C̣n bún chả nữa mới tuyệt, nướng than vừa chín, lửa hơi xém đủ làm cho ŕa ngoài của miếng chả đốm chút vụn đen gịn, lại có cả rau muống chẻ, tía tô và kinh giới. Anh là một người Việt sống bên Pháp lâu năm. Anh đă đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng đây mới là lần đầu anh có dịp ghé thăm khu Bolsa và Sài G̣n nhỏ, nơi được mệnh danh là thủ đô tị nạn của người Việt. Từ một bàn trong góc, anh thích thú quan sát tiệm ăn, từ khách ra vào đến người dọn bàn. Đến khi các món ăn đuợc dọn ra, th́ anh xuưt xoa: "Chả kém ǵ bánh tôm Hàng Xanh với bún chả hẻm Casino ngày xưa nhỉ!"

 

Dạo ở Paris, anh với tôi thường lui tới một tiệm ăn trong khu Choisy, do một ông cựu luật sư ở Sài g̣n ngày trước làm chủ. Cái thủa huy hoàng của ông chủ quán thầy căi khi ông c̣n vẫy vùng trước ba ṭa quan lớn th́ tôi không được chứng kiến, nhưng tài làm bánh tôm của ông th́ quả là hùng biện! Tôi nói thế, bởi v́ không những ông tự tay pha bột, rán bánh, mà c̣n giảng giải bênh vực đĩa bánh tôm rất là hăng say lư lẽ nữa cơ! Ông bảo, con tôm phải to vừa mà đủ râu đủ ria, đủ đầu đủ đuôi, hai mắt trợn trừng nh́n thẳng đằng trước th́ mới gọi là tôm. Nghệ thuật của ông là đặt sao cho con tôm phải ngồi chồm chỗm trên cái bánh, chân tôm cắm vững vàng xuống mặt bánh, chứ không được đặt nằm. Mà vỏ tôm không được nứt, lưng tôm th́ phải đỏ hồng và cong vừa phải, chứ cong quá đáng đến độ trông khúm núm là không được! Sợi khoai cũng phải mảnh vừa, không quấn lấy chân tôm đến làm cho con tôm trông như hùm sa bẫy, ấy là bất thành. Đĩa bánh tôm hùng biện ấy, ông cựu luật sư bán đắt hơn tiệm khác đến gấp đôi. Thế nhưng chúng tôi vẫn hăng hái bỏ tiền ra ở tiệm ông để được ăn những cái bánh tôm khác thường. Khi ăn, ḷng cũng thấy lâng lâng... Bẵng đi một dạo phải đi xa. Một hôm, chúng tôi có dịp trở lại tiệm ông, thấy tiệm càng ngày càng phát đạt, mà khách tây đầm lại nhiều hơn xưa gấp bội. Ông chủ nhớ khách quen, vẫn niềm nở chào đón. Hôm ấy, đương nhiên là chúng tôi lại gọi món bánh tôm. Khi người dọn bàn đưa ra một đĩa rau xà lách to tướng mà lơ thơ chỉ có vài chùm húng lũi buồn rầu, chúng tôi đă ngỡ là anh đưa nhầm bàn. Nhưng không, đĩa bánh tôm đang được đích thân ông chủ tiệm mang ra kia rồi. Nh́n vào những cái bánh, tôi ngạc nhiên lạ lùng! Con tôm oai hùng năm xưa bây giờ nằm tênh hênh trên đống bột vàng ệch, trần truồng trụi lũi, không đầu không đuôi, không râu ria, không manh giáp. Cái bánh tôm hùng hồn năm xưa giờ biến thành một miếng ăn béo ngậy, nung núc dục tính. Chúng tôi không hỏi, ông chủ quán đă tự thấy có bổn phận phải trả lời, giọng ông đục như nước sông Seine những ngày mưa lũ: "Các cậu thông cảm, không bóc vỏ cắt đầu th́ Tây nó không ăn. Có khoai th́ các mụ đầm sợ lên cân... Cho nên đành chịu vậy!" Rồi ông đổi cao giọng vui vẻ: "Hay là lần sau mời các cậu dùng thử món khác. Tôi mới có món miến lươn xào, ngon tuyệt..."  Chúng tôi không bao giờ có dịp trở lại để xem con lươn của ông vẫy vùng thế nào trong đĩa miến. Từ đó, những ngày mưa lạnh, chúng tôi đành mất hẳn một người t́nh...                                              

 

Khi chúng tôi ăn xong th́ bên ngoài đường phố quận Cam đă lên đèn. Chẳng vội vàng ǵ nên chúng tôi thong thả gọi thêm cà phê nóng, loại cà phê phin nước đặc quánh của những quán hủ tiếu ngày xưa. Anh bạn tôi được một bữa khoái khẩu, chưa ǵ đă rủ ngày mai lại ăn thêm lần nữa. Nh́n anh loay hoay lúng túng trong đám chai lọ mắm muối ngổn ngang trên góc bàn để t́m tăm xỉa răng, tôi cười bảo anh rằng tăm chỉ có ở ngoài quầy, mà cũng không biết giải thích với anh tại sao người ta lại không để tăm ngay trên các bàn, có lẽ cốt cho các ông "xỉa răng cọp" đừng có ngồi cà kê lâu quá chăng? (C̣n như nếu cho việc xỉa răng tại bàn là bất lịch sự, th́ sao không để tăm ở trong pḥng vệ sinh mà lại để ở quầy tính tiền khiến cho khách cứ phải ra lấy vào bàn, hoặc là vừa ra về vừa xỉa răng trông thật kỳ cục!) Cà phê xong, anh đ̣i trả tiền. Chúng tôi rất thân nhau, nên chuyện chủ khách không thành vấn đề. Anh giơ tay ra hiệu cho người dọn bàn lại gần, và bảo tính tiền. Tôi chưa kịp ngăn, th́ người dọn bàn đă tỏ ra khó chịu, sẵng giọng: "Ra ngoài quầy kia dùm đi ông!" Rồi thấy thức ăn c̣n khá nhiều trên bàn, anh ta tự nhiên tiếp: "Có muốn hộp để 'to go' không?" Anh bạn tôi ngớ người, ngơ ngác như kẻ phạm tội.  Song, anh cũng kịp hiểu ra, lắc đầu lủi thủi đi lại quầy. Anh rút ra tấm thẻ tín dụng, đặt lên quầy tính tiền. Rồi anh thật sự lúng túng khi ông chủ tiệm vừa lắc đầu quầy quậy vừa nh́n anh như thấy người hỏa tinh: "Ở đây không nhận cái này, chỉ lấy tiền mặt thôi!" Anh đành phải để tôi trả tiền v́ anh không sẵn đô la. Trên đường về, tôi không nghe anh nhắc ǵ đến chuyện ngày mai trở lại ăn thêm lần nữa cái món bánh tôm chân chính như anh đă nói.

 

          Dọc đường, tôi ghé xe vào một trạm xăng. Anh bạn tôi xuưt xoa v́ giá xăng bên Pháp đắt hơn gấp mấy lần. Tôi c̣n đang loay hoay trên tay lái, th́ anh đă nhanh nhẹn bước xuống, cắm ṿi bơm vào xe. Nghiến răng bóp măi không thấy ǵ, anh ra dấu cho tôi v́ tuởng máy bơm hỏng. Tôi lại phải giải thích cho anh rằng ở Mỹ, tuy là xứ dầu hỏa, nhưng mua xăng phải trả tiền trước. Tiền có trao th́ xăng mới chảy! Nhiều cây xăng cũng chỉ nhận tiền mặt. Ở Âu Châu, việc sử dụng thẻ tín dụng và ngân phiếu xem ra phổ thông hơn ở Mỹ nhiều. Sự thật, đa số các thẻ tín dụng ở Mỹ đều là thẻ mua chịu, khác với Âu Châu, và nhất là Pháp, nơi mà các tấm "carte bleue" - gọi thế v́ đa số đều mang màu xanh lơ của hăng VISA - đều có công dụng như loại "American Express" bên Mỹ: Không có sẵn tiền trong trương mục th́ đừng có ḥng mà chà chiếc ǵ hết. Cho nên các cửa hàng bên Pháp không ngại ǵ mà không nhận thẻ tín dụng; mà khách mua hàng lịch lăm cũng chỉ hay dùng thẻ. Tưởng tượng, sau một bữa ăn tối ngà ngà với người bạn gái mới quen, bạn chỉ cần khe khẽ làm dấu là nhà hàng đem giấy tính tiền đến trong một chiếc đĩa nhỏ, kín đáo gấp nghiêng về phía bạn. Bạn khinh khỉnh liếc mắt nh́n, xong rút ví từ tốn đặt tấm thẻ màu xanh da trời vào ḷng đĩa. Lịch lăm biết bao! Lăng mạn biết bao! Nhưng người ta sẽ để cho bạn có đủ th́ giờ để mà chua xót sau cơn lăng mạn. Một lát sẽ có người đến đem đĩa đi. Bạn không phải móc bạc cắc trước mặt người đẹp để lo đến chuyện "pourboire" ǵ cả, v́ tiền "service" thường đă chém sẵn trong giá thành: Người ta đương nhiên coi bạn là người lịch thiệp. C̣n có muốn cho thêm tí nữa để được hào hoa thêm, ấy là tuỳ bạn. Rồi họ đem giấy lại cho bạn kư. Những tiệm lớn có khi mang lại một chiếc máy gọn như cái điện thoại cầm tay cho bạn bấm mă số vào. Giữa cái lúc đau ḷng ấy, tôi xin khuyên bạn, dù có cố đóng vai hào hoa đến mấy, th́ bạn cũng phải ráng mà trợn mắt lên nh́n cho kỹ những con số trong giấy tính tiền trước khi tḥ tay ra bấm mă số hay kư bản án chém đầu. Kư rồi là mồ hôi nước mắt bạn tuôn ra khỏi tủ sắt nhà băng, trước cả lúc đôi chân bạn bước ra khỏi nhà hàng. Có nhầm lẫn, muốn đ̣i lại cũng c̣n lâu lắm! (Ở Pháp, h́nh như người ta làm thơ ca ngợi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nhiều hơn là đi kiện để dành được những quyền làm người căn bản đó.) Những cửa tiệm nhỏ không có máy tự động nối với các ngân hàng th́ họ có thể kín đáo dùng điện thoại thường trực gọi đến trung tâm tín dụng ngay khi bạn c̣n đang ngồi ở bàn. Ấy là khi bà chủ tiệm không đồng quan điểm với cô bồ mới của bạn, chẳng thấy vẻ hào hoa chút nào mà cứ trông bạn có vẻ gian manh ăn quịt làm sao ấy...

 

Ra khỏi khu Sài G̣n nhỏ, chúng tôi tạt qua một trung tâm thương mại lớn v́ tôi cần vào siêu thị mua vài thức ăn khô cho ngày hôm sau. Hệ thống siêu thị ở Mỹ không giống như ở Âu Châu, đặc biệt là ở Pháp, v́ siêu thị ở Mỹ tuy cũng rất rộng lớn nhưng đuợc phân chia ra hai loại rơ rệt: Loại chợ bán thức ăn, và loại cửa hàng chuyên bán các sản phẩm cuả một ngành công nghiệp riêng biệt như máy móc gia dụng hay áo quần. Ở Pháp cũng có những cửa hàng lớn chuyên biệt như thế. Tuy nhiên, sức mạnh của ngành kinh doanh bán lẻ này nằm trong tay một hệ thống có chừng năm hay sáu đại siêu thị. Khái niệm đại siêu thị (hypermarché) là một công thức hoàn toàn Phú lăng sa, nơi mà người tiêu thụ có thể t́m thấy "mọi thứ cần dùng dưới một mái nhà" ("tous sous le même toit" là khẩu hiệu cuả ngành kinh doanh này). Ở đó, bạn có thể mua từ rau cỏ, thịt cá, bia rượu, cho đến áo quần, giày dép, sách vở, vật dụng trang hoàng nhà cửa, hay giường nệm, vv.. . Máy móc th́ từ máy cưa máy đục, máy sấy tóc, cạo râu, cho đến ti-vi tủ lạnh đều có cả. Mỗi mặt hàng, bạn đều có thể t́m thấy hầu hết các nhăn hiệu và các loại giá cả từ thấp đến cao. Thậm chí bạn có thể thấy cả vài hăng xe hơi đem xe mẫu đến quảng cáo trong những ngày lễ lớn ngay bên cạnh hàng rau quả. Nguyên một thế giới sản phẩm tiêu thụ như thế thường được trưng bày trên một diện tích chừng hai mươi hay ba mươi ngàn thước vuông, tức khoảng gần ba trăm ngàn square feet, trải ra trên hai hay ba từng lầu. Từ từng này lên từng kia bạn phải dùng thang cuốn không có bực, dài như một triền dốc lên đồi. Dĩ nhiên là bạn có thể đem cả xe đẩy đầy rau tươi thịt cá lên thang xuống thang để t́m mua một tấm trải giường hay ngay cả một quyển thơ Apollinaire. Các đại siêu thị chỉ được phép xây dựng ở ngoại ô thành phố, và thường phải gần một trạm xe điện ngầm nối dài, cộng với một băi đậu xe khổng lồ.

 

Hồi ở Pháp, cứ hai ba tuần một lần, chúng tôi lại phải hy sinh một buổi chiều thứ bảy để đến một nơi như thế, tha về các thứ cần dùng. V́ chỗ đậu xe hiếm hoi nên chúng tôi thường phải đẩy chiếc xe đầy ắp các thứ lỉnh kỉnh từ trong chợ băng qua băi đậu xe xa hàng trăm thước. Có khi vợ đẩy một xe, chồng một xe, con cái th́ đứa xách cái này đứa đeo cái kia, cứ như đám rước. Chất xong các thứ vào cóp xe rồi, là thở muốn đứt hơi. Lúc ấy, cái bực ḿnh thứ nhất là phải đem chiếc xe đẩy trả về chỗ của nó, trong khi một đoàn xe cộ dài đang nóng nẩy chờ ḿnh lùi ra để lấy chỗ đậu. Có khi trời lạnh như cắt, sờ măi không thấy ngón tay ḿnh đâu. Có khi tuyết đổ lầy lội. Có khi nắng nung điếng người. Mà vợ con th́ dục như dục tà! Những lúc ấy, dù có là người lịch sự đến đâu đi nữa, bạn có là tôi th́ bạn cũng chỉ muốn đẩy quách cái xe chợ vào một góc rồi chuồn cho xong chuyện! Nếu có ai nói ǵ, th́ cứ căi bừa rằng làm như thế mới là biết điều, v́ hài ḷng cả vợ con ḿnh và cả những người lái xe nóng nảy đang chờ lấy chỗ đậu kia nữa. Nhưng tôi đă bảo là băi đậu xe ở Paris hiếm hoi vô cùng, nhất là tối thứ sáu hay chiều thứ bảy th́ đến giết nhau đi mà đậu. Cứ tưởng tượng lại phải có thêm chỗ để ghếch hàng ngàn cái xe đẩy ngổn ngang nữa th́ loạn. Mỗi lần như thế, tôi lại len lén nh́n xuống hai vai để lắng nghe ông thiện ông ác căi nhau về thế nào là người biết điều, lịch sự. Mà cuộc chiến của các vị thần th́ bao giờ mà chẳng bất phân thắng bại?

 

          May mắn thay, ông thiện ông ác trên hai vai tôi đă được các ngài tài phiệt chủ chợ giúp cho có một trọng tài. Ông trọng tài đó chính là một đồng bạc mười quan có hai màu, ở giữa th́ trắng xung quanh viền vàng tựa như một tấm ḷng ngay thẳng mới vừa hoen ố.  Này nhé, khi bạn vào cửa chợ, bạn sẽ thấy hàng trăm cái xe đẩy xếp hàng ngay ngắn, cái này lồng vào cái kia ngoan ngoăn. Bạn xăm xăm tiến lại, lôi ngay ra một cái. Quái lạ, sao cứng chặt đến thế? Bạn nghiến răng lôi mạnh hơn, mạnh hơn... Th́ có khi cả hàng xe đẩy xô ào về phiá bạn! Bởi v́ chúng được nối vào nhau bằng những sợi dây xích, từ những hộp sắt nhỏ gắn liền vào tay đẩy trên mỗi xe. Muốn lấy rời được một xe ra, dễ lắm, chỉ bỏ một ông trọng tài hai màu vào khe nhỏ trên hộp. "Tách" một cái là xong, chiếc xe sẽ ngoan ngoăn theo bạn vào chợ. Ông trọng tài mà bạn ấn vào khe ấy sẽ cứ nằm lắt la lắt lẻo như thế, nửa trong nửa ngoài, nửa kín nửa hở trên cái khe như trêu tức bạn. Bạn sốt ruột muốn nắm cổ ông lôi ra cất đi cho được việc? Ấy, bạn đừng ngây thơ đến thế! Bởi v́ ông có nhiệm vụ nằm yên đấy như một sự cầm cố cho lời cam kết của bạn hứa sẽ làm người lịch sự. Nghĩa là bạn chỉ có thể lôi ông ra mà cho lại vào túi bạn khi nào bạn dùng xong chiếc xe đẩy, và ngoan ngoăn đem xe về chỗ cũ, lồng sợi xích có đầu như mỏ neo vào hộp trên tay đẩy cho xe nọ dính với xe kia thành hàng như trước. Thế là xong. Khi đó, bạn sẽ thanh thản làm người lịch sự, mặc cho hai vị thần lương tâm căi nhau chí choé, v́ cán cân đă nghiêng hẳn về một phía với đồng bạc trọng tài. Nhưng cái thú vị nhất là ở chỗ dù có vội đến mấy, vợ bạn cũng sẽ không bao giờ xúi bạn đẩy đại cái xe vào một xó để rồi xót xa nh́n ông trọng tài nửa kín nửa hở nằm yên trong khe mà không sao lôi ra được. Cái văn minh lịch sự nhiều khi mua được với giá rẻ rề, có chưa đầy hai đô la Mỹ!

 

Khi đến Mỹ, tôi đă ngạc nhiên thấy các ông trọng tài ở đây không được người ta sử dụng. Các siêu thị cũng có thật nhiều xe đẩy dành cho khách hàng, nhưng không bắt khách hàng phải có trọng tài làm nhân chứng cho ḷng tự trọng. Ở các phi trường, bạn có thể phải bỏ bạc cắc vào ống để được dùng cái xe đẩy, nhưng đấy lại là chuyện khác. Đấy là người ta cho bạn thuê một vật dụng, chứ không phải người ta đ̣i bạn bỏ tiền ra thế chân cho ḷng tự trọng, v́ ở phi trường hễ bỏ đồng bạc vào là bạn mất nó đứt đuôi đi rồi c̣n ǵ nữa! Nước Mỹ là một vơ đài khổng lồ của thị trường tự do mà hàng hóa và dịch vụ là nguồn vơ sĩ, c̣n khách hàng là khán giả, các nhà kỹ nghệ và doanh nhân là những ông bầu. Trên đất nước cha đẻ của ngành tiếp thị th́ làm ǵ có chuyện phẩm cách của khách hàng bị nghi ngờ và đánh giá bằng một đồng bạc cắc? Nơi này, người tiêu thụ là vua, khi nào anh ta c̣n có tiền để tiêu, hay ít ra, c̣n có đủ nhân quyền để mà thiếu nợ. Cho nên đi chợ ra, muốn đem cất cái xe đẩy vào tận chỗ xếp, hay ghếch nó lên lề, hay ngay cả xô đại ra một phía xa xa đều là tùy ḷng hảo tâm của khách. Miễn là đừng có xô vào xe thiên hạ mà rầy rà to là được. Lúc nào trong băi đậu xe cũng có năm bảy người vạm vỡ được chủ chợ mướn để suốt ngày chỉ đi làm cái công việc của người lịch sự thay cho khách hàng: Đi xếp xe đẩy.

 

Đă có lần, tôi cắc cớ hỏi một người bạn Mỹ về chuyện ấy. Anh ta là một chuyên viên trong ngành tiếp thị. Anh ta trợn mắt cau mày, cho cái ư tưởng thiết lập một hệ thống đóng "bail" cho các xe đẩy dùng ở siêu thị như bên Pháp là một hành động điên rồ, không chợ nào ở Mỹ dám làm. Hăy cứ tưởng tượng rằng hệ thống thế-chân-nhân-cách ấy được một chợ A áp dụng, th́ chắc chắn rằng sẽ có ngay ít nhất một chợ địch thủ B sẵn sàng bỏ tiền ra đăng trên trang đắt giá nhất của tờ báo có nhiều người đọc nhất, rằng "chợ A chửi khách hàng, đánh giá tư cách khách hàng bằng một đồng quarter, vv và vv..." Đừng quên rằng lối quảng cáo so sánh trực tiếp nêu đích danh đối thủ ra để cạnh tranh - theo kiểu "Hamburger của hăng chúng tôi có miếng thịt ḅ 10 phần trăm to hơn miếng thịt trong hamburger của hăng XYZ" -  là một điều vi phạm luật thương mại của các nước trong cộng đồng các quốc gia Âu Châu, nhưng lại là một vũ khí marketing bén nhậy và hợp pháp trong thị trường nội địa Hoa Kỳ. Nếu ở Pháp, th́ quá lắm cũng chỉ được quyền rao lên rằng "Hamburger của hăng chúng tôi có miếng thịt ḅ... to tướng, to ơi là to" mà thôi. Ngoài việc phản tuyên truyền và bị cạnh tranh, hơn thế nữa, ai mà lại đi dùng những sợi dây xích lẩm cẩm và công sức của chính khách hàng yêu quư để thay thế cho những nhân công nghèo khổ kia? Nếu tất cả các siêu thị trên nước Mỹ đều lẩm cẩm như thế, th́ sẽ có hàng chục ngàn người thất nghiệp, tệ đoan xă hội sẽ tăng lên, quỹ an sinh sẽ thâm thủng, tỷ lệ thất nghiệp thấp kỷ lục chưa từng thấy từ ba thập niên qua sẽ có thể bị lung lay. Có khi chương tŕnh thám hiểm không gian bị đ́nh trệ nữa cũng không chừng!... Tôi nghe mà bàng hoàng lo lắng quá!         

 

Anh bạn du khách từ Paris, thành phố ít cầu tiêu công cộng miễn phí nhất thế giới, và tôi mua xong mấy thứ lặt vặt ở siêu thị ra th́ dễ đă đến nửa đêm. Anh thích thú nhận xét rằng người Mỹ thật chăm chỉ làm việc. Ở Pháp, sau 9 giờ tối là đă chẳng mua được ǵ v́ các siêu thị đều đă đóng cửa, chỉ c̣n các quán ăn, cà phê và hộp đêm là mở không biết mệt. (Thế nhưng ở Berlin th́ các cửa hàng đă đóng ngay từ 6 giờ chiều c̣n ở Barcelona hay Madrid th́ quá nửa đêm đường phố vẫn ồn ào tiếng người mua bán, mà nói rằng người Đức không chăm làm bằng người Tây Ban Nha th́ nghe cũng có cái ǵ không nên không phải! Tôi nghĩ thế nhưng không muốn nói ǵ làm cho anh cụt hứng.) Trong khi tôi c̣n mải chất các thứ vào xe cho gọn, anh bạn tôi đă nhanh nhẩu lon ton đẩy chiếc xe chợ không đi đâu lúc nào. Tôi chờ anh có đến mươi phút, rồi sốt ruột quá, tôi phải trở vào t́m anh. Giữa băi đậu xe đă vắng người và cửa siêu thị đă bắt đầu khép lại, tôi không nhịn được cười khi thấy bạn tôi vẫn c̣n ngơ ngác đẩy cái xe từ đầu nọ đến đầu kia để đi t́m nơi cất. Ban năy khi đến, anh đă sơ ư không nhận ra là tôi đă lấy cái xe đẩy mà không cần phải có trọng tài. Bởi v́ ở đây, hai ông thần trên vai tôi không thèm tranh căi hơi suông nữa. Ở đây, các ông thần đều có luật sư, và ác quỷ đều đưa nhau ra ṭa mỗi khi làm việc thiện. Anh bạn tôi đẩy chiếc xe chợ đi t́m chỗ xếp trong băi đậu xe xứ Hoa Kỳ trông ngây ngô hệt như bà chị tôi nhớn nhác đi t́m cầu tiêu công cộng trong vườn Luxembourg ngày nào vậy. Họ đều là những người sống lâu năm trong những xứ văn minh, họ không làm ǵ sai trái mà ngược lại chỉ hành động theo một bản năng sinh tồn trong cái môi trường thường ngày họ sống. Họ vẫn ngoan ngoăn nghe và làm theo lời ông thiện trên vai họ. Duy có điều những vị thần, v́ là bậc thần tiên nên đă không thèm nhận ra rằng nước Pháp và nước Mỹ, dù chứa đầy văn minh của cải và mang cùng một màu da trắng, cũng vẫn là hai xứ sở, hai dân tộc rất khác nhau. Mỗi dân tộc đều có cái lư lẽ riêng để bênh vực cho những điều bần cùng nhất của riêng ḿnh.

 

Từ dạo ấy, tôi thường sống một giấc mơ tuyệt vời lúc nửa đêm về sáng. Tôi mơ thấy được cùng mẹ tôi đi chợ Đa Kao, tay bà xách chiếc làn mây đầy thức ăn, nói cười thong thả. C̣n tôi tung tăng nhảy nhót đằng sau, tay bóc chiếc bánh gị, ăn xong thảy lá cho con chó mực, rồi hiên ngang ghé vào bờ dậu vạch quần tè. Trong mơ, tôi thấy những vị thần trên vai bà và cả trên vai tôi đều mỉm cười âu yếm.

 

Dân tộc tôi, dù lang thang khốn khó cũng có lư lẽ riêng cho những điều ḿnh làm, mà chỉ người dân tôi mới hiểu ra, chỉ thần linh xứ tôi mới có quyền tha thứ ./.

 

 

NGUYỄN HƯNG

 

                                     (T. D. , Nguyệt San Thế Kỷ 21, số 147, July 2001)