KỶ-NIỆM TUỔI HỌC TR̉
1970-2005…
Khoảng thời-gian 35 năm,
bây giờ ngồi ở đây hồi-tưởng lại,
quăng đời đă qua, kỷ-niệm đẹp nhất
vẫn là kỷ-niệm tuổi học tṛ. Tôi muốn được viết
lại để nhớ về đoạn
đường rất đẹp tôi đă đi qua trong
đời. Và tôi xin mời tất-cả các
anh chị lớp đàn anh,
các bạn cùng thời, và các em nhỏ hơn tôi,
các cựu học-sinh Dĩ-an, cùng với tôi đi
ngược ḍng thời-gian để t́m về ngôi
trường cũ, nơi đă nuôi dưỡng chúng ta
thành người, đă cho chúng ta bài học về t́nh yêu,
t́nh bạn, một thứ hành-trang tuyệt vời tôi đă
mang theo cả cuộc đời.
Quê nội
tôi ở Dĩ-an, nhưng v́ ba tôi là quân-nhân nên gia-đ́nh tôi
phải rày đây mai đó theo
sự di-chuyển v́ công-vụ của người. Niên-khóa
1970-1971, tôi đang học lớp đệ nhị A2
của trường công-lập Thủ-đức, v́
thấy tôi xao lăng việc học, chơi nhiều mà
học th́ ít, ba tôi quyết-định gởi tôi về
Dĩ-an, với lời răn đe là tôi phải đi
học đều đặn, và sửa đổi lại
cho đàng hoàng. Tôi về tŕnh-diện thầy
hiệu-trưởng Trần-Anh, trường công-lập
Dĩ-an vào những
tháng đầu của năm học đệ nhị.
Thầy đă dặn ḍ,
khuyên bảo tôi nên cố gắng học rồi đưa
tôi xuống lớp và giao cho giáo-sư đang trong giờ dạy.
Mới nh́n vào lớp, tôi thoáng run người lên v́
đa-số là con gái (tôi bị ám ảnh kinh hoàng bởi các
bà chị cùng lớp ở Thủ-đức, bà nào cũng "gấu"
cả, luôn ăn hiếp bọn con trai) Tôi lí nhí chào thầy, rồi cúi
gầm đầu đi một mạch xuống cuối
lớp, mắt tôi nh́n xuống đất chớ không dám
nh́n lên hai bên. Cũng may bàn gần cuối lớp có ba
anh con trai, sau này tôi mới biết tên là Hưng Bản Lề
(với cái miệng như cái ống tà la), Paul Điệu,
và Sơn Sửa Xe (c̣n tôi sau khi nhập bọn với các
ông tướng này th́ cũng được đặt
một cái tên rất dễ thương, là Phương Cà
lơ!). Tôi đi qua luôn xuống bàn dưới cùng và
ngồi vào ghế, bỗng tên Hưng chỉ vào mặt tôi
và nói "A, dân quậy công-lập Thủ-đức
gặp dân quậy công-lập Dĩ-an rồi, đúng là
ngưu tầm ngưu, mă tầm mă. Paul mầy xuống bàn dưới ngồi với
thằng mới nầy, để bàn nầy tao với
thằng Sơn!" Người bạn
mới của tôi với cái tên đi học thật hay, Châu-Ngọc-Ẩn,
cười và bắt tay
tôi rồi xuống ngồi chung bàn. Tôi cũng cười chào lại mà trong ḷng
vẫn c̣n hơi sờ sợ v́ các bà chị cùng lớp
thỉnh thoảng quay lại nh́n tôi chắc để xem mặt
mũi tôi coi có giống con giáp nào không chắc?
Qua được một tuần-lễ đầu,
rồi những ngày sau đó, t́nh-cảm của tôi
đối với cả lớp, cũng như riêng
với cá-nhân Paul, dần dần nảy nở, tôi thích
lớp học mới với những người bạn
mới, và tôi trở thành bạn thân của Paul. Chẳng
những là bạn thân, tôi c̣n được gia-đ́nh Paul
đối đải rất ân-cần như một
thành-viên trong nhà. Tôi vẫn mang ơn chị Hằng
đă cho tôi những bữa cơm ngon, chị không bao
giờ thắc-mắc chuyện tôi đă ăn cơm và ngủ lại nhà
chị, rất thường xuyên. Tôi nhớ
thương cô em nhỏ Châu-Kim-Chi hiện đang
cư-ngụ tại Úc-châu, cô nhỏ có cái miệng cười
rất duyên dáng và rất hay cười khi gặp mặt
tôi. Có một điều tôi cần phải nói rơ cho các
bạn nghe, tôi bị thằng Hưng
Bản Lề cảnh-cáo là "Thằng nào chơi với
bạn mà chọc ghẹo em bạn là thằng lựu đạn"
và tôi th́ không bao giờ muốn trở thành tên lựu
đạn, oai vậy đó! Vài tháng sau khi tôi về học ở Dĩ-an, tôi nhớ
hôm đó là giờ Việt-văn của thầy
Nguyễn-Công-Khai (thường vào đầu giờ
học, thầy cô hay khảo bài cũ, trước khi
giảng bài mới), tôi bị gọi tên. Theo
thói quen, tôi đi lên bàn thầy, đứng quay lưng
lại lớp, và nh́n thầy với một chút lo âu,
chờ thầy hỏi bài, nhưng hôm ấy thầy
lại không khảo bài như thường lệ, mà
rất nhẹ nhàng nói với tôi, "Em nên gia-nhập
khối báo chí của trường để làm báo Xuân, em
và các bạn của em sẽ làm được việc
đó. Sau giờ học, em lên pḥng thầy
hiệu-trưởng để gặp thầy rồi
chuẫn-bị phân công" Tôi quay lại đi
về chỗ ngồi mà tưởng ḿnh đang mơ!
Làm báo? Tôi mà được đi làm báo
trường ư? Chao ôi là vinh-dự! Nhưng tôi có làm được không chớ?
Cũng như các bạn cùng
lớp, chúng tôi có tâm-trạng hết sức là hoang mang,
vừa vui mừng, vừa lo lắng, không biết ḿnh sẽ
đóng góp được ǵ cho tờ báo xuân của
trường đây? Sau giờ học, tôi và Paul lên pḥng thầy
hiệu-trưởng, ở đó đă có mặt thầy
Khai, chị Vơ-Thị-Huệ, lớp đệ nhất.
Thầy Trần-Anh nói sơ qua
về tờ đặc-san xuân của trường,
h́nh-thức lẫn nội-dung. Việc
đầu tiên là sẽ thông-báo đến các lớp, các
cấp, cổ-vơ để các bạn đóng góp bài vở,
gồm thơ, tùy-bút, truyện ngắn, v. v…. Về kinh-phí in ấn và phát-hành báo,
trường sẽ ứng tiền trước để
lo việc đó và sau khi tờ báo đă hoàn-thành th́ các
học-sinh chúng tôi sẽ đem đi bán ở các
trường bạn, đó là phần gây thêm quỹ cho
trường trong tương-lai. Chị
Huệ sẽ là cố-vấn cho khối báo-chí, chịu
trách-nhiệm về việc đi
ḍ hỏi giá cả ở các nhà in ở Biên-ḥa để
t́m chỗ in rẽ nhất, rồi kư hợp-đồng in
báo. Chị là một đàn
chị có khả-năng lănh-đạo và chỉ-huy rất
giỏi, lại kiên-nhẫn, và hiền lành, chị là
chị ruột của Kim-Cúc trong ban báo-chí. Chị
luôn khích-lệ tinh-thần chúng tôi, nếu không có chị
chăm sóc trong ngoài, chắc chắn là cả đám
kư-giả lẫn ban
biên-tập, ban
trị-sự của tờ đặc-san xuân c̣n
vất-vả hơn rất nhiều! (Tôi rất lấy
làm tiếc là sau đó, đến khi mất nước,
tôi đi tù, ra khỏi địa-ngục trần-gian, và cho
đến ngày tôi đi định-cư sang Hoa-kỳ, tôi
đă không có lần nào được gặp chị nữa!)
Ở giai-đoạn chuẫn-bị đó, có nhiều lúc
chúng tôi thấy việc làm báo sao mà nhiêu-khê quá, nhưng sau
khi bắt tay vào việc, và làm việc rất hăng say,
chúng tôi thấy được ư nghĩa của tờ báo
xuân, và ai nấy cũng đều hăng hái. Những
thông-báo, thông-cáo bay vù vù từ khối báo chí xuống
từng lớp, và bài vở bay ngược lại làm chúng
tôi bận rộn lu
bù, nào là nhận bài, xếp theo từng thể loại, h́nh
ảnh trang-trí… Tôi c̣n nhớ, có một bài thơ
của anh Trung (nhà anh có sạp bán báo ở ngay đầu
chợ Dĩ-an), thơ anh chỉ có hai chữ, rồi anh
làm theo từng hàng, từng hàng dài, rất hay. Tôi hỏi Paul
"Ê mầy, hồi đó tới giờ ḿnh đọc
thơ của TTKH, Nguyên-Sa…
toàn là cả câu dài, sao bài thơ này chỉ có hai
chữ là sao, tao không hiểu nổi?" Anh chàng phang lại "Mầy
ngu! Thơ mới người ta có thể làm theo
nhiều thể-loại khác nhau" Đúng rồi, tôi
ngu thật, ngu v́ không biết ǵ về thơ văn cả,
tôi chỉ biết mơ mộng, cái mơ mộng của
một tên học tṛ mới lớn, đang tập yêu và
tập làm báo trường!
Rồi
tờ báo xuân cũng được in xong, chở về
trường từng chồng, từng chồng, c̣n thơm mùi mực, mùi giấy mới, và chúng
tôi hân-hoan chuẫn-bị lịch-tŕnh phát-hành báo đến
các trường bạn. Chị Huệ vẫn là
người trưởng-đoàn, lớp của tôi có
Kim-Sa, Tư, Như-Mai, và bốn đứa tôi gồm
Hưng, Sơn, Paul và Phương, các lớp dưới có
anh chàng Sự Sún, Thanh-Vân, T́nh, Kim-Cúc, Thu-Tùng, Kim-Chi,
Nguyên (không biết tôi c̣n thiếu sót tên ai không?) Thường
th́ chúng tôi khởi-hành vào buổi sáng, sau khi thầy cô
điểm-danh xong, phương-tiện di-chuyển là xe Honda, con trai phải chở con gái. Và
các cô gái này đương-nhiên là những nhân-vật
hết sức là quan-trọng, v́ ngoài việc các cô là những
hoa-khôi xinh đẹp của trường, các cô c̣n là
linh-hồn chính của phái-đoàn bán báo, bởi thế mà
đám con trai chúng tôi phải o bế hết mực, ch́u
chuộng hết ḷng. Đi bán báo mà chúng tôi phải
đem theo thuốc cảm và dầu gió để
đề-pḥng trường-hợp các cô… nhỏng
nhẻo bất-tử, th́ các cô đúng là các cô tiên nhỏ!
Về điều-hành th́ chúng tôi phân-công như sau: Paul
là thủ-quỹ nắm tài-chánh, Sơn đặc-biệt
biết nghề xe cộ nên lo về xăng nhớt, bảo-đảm
an-toàn trên xa-lộ cho đoàn bán báo, anh chàng luôn chạy
từ phía sau lên phía trước, rồi ṿng lại phía sau
để xem đoàn xe có bị trở ngại hay có bị
ai bị rớt lại phía sau không. Tôi thường hay
trốn việc, nên giành phần trật-tự, tức là
giữ xe cho cả nhóm. Chị
Huệ và Hưng Bản Lề là hai phát-ngôn-nhân của
phái-đoàn, chị và Hưng phải thuyết-tŕnh về
trường công-lập Dĩ-an, và quảng-cáo về
tờ đặc-san xuân. Sau khi chọn ngày lành tháng tốt
để xuất-quân, đợt đầu chúng tôi
Bắc-tiến, làm một ṿng các trường ở Biên-ḥa
như Ngô-Quyền, Minh-Tân, trường Kỷ-thuật,
rồi qua công-lập Công-thanh, Tân-uyên, Nhơn-trạch,
Long-thành. Đợt thứ hai chúng tôi
về công-lập Thủ-đức, Notre Dames des
Nỗi vui
mừng đă góp phần làm được một việc
công ích cho trường không kéo dài được lâu, v́ sau
mùa báo chí đó, vài tháng sau tôi lại bị đi
"lưu-vong" lần thứ hai, xa trường
công-lập Dĩ-an, xa hết bạn bè thân mến
để chuyển về công-lập Tân-uyên. Rời Dĩ-an, tinh-thần tôi xuống rất
thấp, tôi cứ buồn bă hoài, v́ nhớ trường,
thương bạn. Về chỗ mới, tôi sống trong
quận-đường, với một pḥng ngủ nhỏ
xung quanh xếp đầy bao cát, cao hơn khỏi
đầu, và mái là những tấm vĩ sắt để
chống pháo-kích cả ngày lẫn đêm. Lần này ba
tôi theo dơi rất sát việc học hành
của tôi. Mỗi sáng đi học, tôi đều có
chú lính đưa tôi đi, và đến trưa, chú lại
đón tôi về, ba tôi sợ tôi trốn học bỏ
về Thủ-đức. Tôi mệt mơi, và chán nản
cùng cực, tôi nhớ trường cũ, bạn cũ
ở Thủ-đức, ở Dĩ-an… mới có
mấy tháng mà tôi gầy đi, tôi xuống kư… Sau cùng
tôi cầu cứu với mẹ tôi, năn nỉ bà xin dùm
ba, cho tôi trở lại công-lập Thủ-đức, xin
cho tôi được chuyển trường v́ lư-do sợ
bị pháo kích. Và tôi vui mừng biết mấy, khi
niên-khóa mới 71-72, tôi được trở về
công-lập Thủ-đức, cuộc chuyển
trường lần đó là lần cuối cùng của
cuộc đời học-tṛ của tôi, v́ vào giữa
niên-học, tôi bị động-viên vào trường
bộ-binh Thủ-đức. Tôi c̣n
nhớ, một số bạn cùng tuổi, cùng tháng sinh
với tôi, tháng giêng, bị gọi trước. Ngày cuối vào giờ Việt-văn của cô Uyên-Dung
(cô hiện đang định-cư tại
Tôi vào
trung-tâm huấn-luyện Quang-Trung để học
giai-đoạn một, căn-bản quân-sự, và
khoảng hai tháng sau đó, tôi đă bật cười ha
hả, khi phát-giác ra ở đại-đội khóa-sinh
mới kế bên, có anh chàng Paul! Hắn cũng bị
gọi nhập-ngủ như tôi, nhưng đi sau, v́
hắn sinh vào tháng ba, hai thằng chúng tôi gặp lại,
mừng vui khôn tả, cười, vui hơn bao giờ!
Paul có một số bạn mới, tôi cũng vậy,
cả hai đám chúng tôi nhập lại, vui như tết,
cười đùa, phá phách… Tôi chuyển
lên Thủ-đức để hoàn-tất giai-đoạn
hai và ba của khóa học quân-sự và trở thành một
trung-đội trưởng thực thụ. Ngày
ra trường, tôi chọn về miền Tây, sư-đoàn
21 Bộ-binh, Paul về miền Đông, với
sư-đoàn 18, mỗi thằng trấn ở một
miền. Chúng tôi chia tay nhau, và ít khi có dịp gặp
lại, trừ những ngày phép đặc-biệt về
Sàig̣n thi văn-hóa như tú-tài II, luật-khoa, văn-khoa,
khoa-học, v.v… chúng tôi hăy c̣n rất
trẻ, c̣n độc-thân, và vẫn c̣n muốn đi
học, vẫn c̣n muốn làm học tṛ. Với
t́nh-h́nh chiến-sự càng lúc càng leo
thang, chúng tôi càng ít đi những dịp về phép cùng lúc,
để đi uống cà-phê, cùng đi nghe nhạc,
hoặc đi vũ-trường, thỉnh thoảng chúng tôi
cũng có thư để biết tin-tức của nhau
thôi. Ngày cuối cùng của miền Nam, xế trưa
ngày 30 tháng tư, 1975, tôi từ Cà-mau về lại Sàig̣n,
Paul theo sư-đoàn từ Long-B́nh về giải-vây
thủ-đô, chúng tôi gặp nhau ở Ngă Tư Hàng
Xanh. Trong quân-phục tác-chiến, chúng tôi nh́n nhau
nghẹn ngào, không biết phải làm ǵ bây giờ! Lệnh
đầu hàng vừa ban ra làm chúng tôi hụt hẩng, chúng
tôi vẫn c̣n muốn chiến-đấu, dù là lần
cuối cùng, và chúng tôi đă khóc với nhau ngay vào
thời-điểm lịch-sữ đó, v́ chúng tôi đă
mất tất-cả…
Cuối năm 1981, sau khi ra khỏi tù
cải-tạo, v́ không được phép cư-ngụ
ở Thủ-đức nữa, tôi hồi-hương
về Dĩ-an sống với ông nội tôi. Ông đă
gần 80, sống một ḿnh đơn-độc trong
căn nhà ở cùng dăy với trường tiểu-học,
hơi đối-diện trường bán-công. Tôi lập gia-đ́nh và sống ở Dĩ-an
mười năm. Vợ chồng tôi có một
cái quán nước nho nhỏ, bán giải-khát, chè… Thời-gian mười năm ấy, tôi sống trong
buồn bă âm thầm. Tôi sống cạnh
trường xưa, mà trường giờ đây đă
mất tên, tôi cũng mất hết bạn bè cũ ở
công-lạp, ở bán-công. Tôi chỉ c̣n gặp lại
một số bạn cũ như Nhân, Chừng (nay đang
định-cư ở Mỹ), Hưng Bản Lề cùng
lứa với tôi, rồi Kim-Sa, Như-Mai (chị của
Thúy-Hồng, dân công-lập Dĩ-an), Phép, Kim-Cúc… Đặc-biệt cô nhỏ Kim-Cúc (em gái chị
Huệ), thường hay ghé nhà tôi mỗi khi buôn bán về.
Cô bạn nhỏ có đôi mắt u buồn hơn
độ nào khiến ḷng tôi se sắt và thương
cảm, tôi quí cô bé ấy vô cùng...
Đầu
năm 1995, theo diện H.O. 25, tôi với
nhà tôi và đứa con gái đến định-cư
tại
Cựu
học sinh Dĩ-an, Huỳnh-Đức-Phương