Khái
Quát về bịnh Alzheimer
Thái Minh Trung, M.D.
Alzheimer là ai?
Alois Alzheimer là một y sĩ người Đức,
vào đầu thế kỷ 20 (1907) ông ta là người
đầu tiên phát hiện ra bịnh lú lẫn (dementia)
ở một thiếu phụ 51 tuổi. Sau khi bịnh nhân mất, ông ta lấy mẫu
thử nghiệm (biopsy) năo bộ và t́m ra những dấu
hiệu bất b́nh thường là những vết cặn
(plaque) ở ngoài tế bào thần kinh và những sợi
sơ (tangle) ở trong tế bào thần kinh. Plaque và
tangle hiện nay là thước vàng để chẩn
bịnh lú lẫn Alzheimer. Plaque và tangle là những loại
proteins bất b́nh thường (amyloid và tau) không tan được,
đóng vào các tế bào thần kinh và ảnh hưởng
đến sự hoạt động của chúng. Ta có
thể h́nh dung những chất này như sét rỉ bao quanh
dây điện làm ḍng điện chạy chậm lại. Khi các chất này ứ đọng nhiều quá th́
chúng gây độc (neurotoxicity) cho các tế bào thần kinh
và làm cho các tế bào này bị hủy hoại.
Ai thường bị bịnh
này?
Thống kê
cho thấy khi tuổi càng cao th́ nguy cơ bị bịnh này
tăng theo. Sở dĩ bác
sĩ Alzheimer đă phát hiện bịnh này cách đây
một thế kỷ nhưng ít được ai nhắc
đến v́ trước đây tuổi thọ con
người chỉ vào 50 hay 60. Thống
kê cho ta thấy bịnh Alzheimer là bịnh thường xuyên
nhứt của những người trên 65 tuổi.
Chỉ có 10% người cao niên ở lứa tuổi 65
mắc bịnh này nhưng gần như 50% người cao
niên trên 80 tuổi mắc phải bịnh này. Hiện nay
tại Hoa Kỳ có khoảng 4 triệu người bị
bịnh này và con số này được ước
lượng lên đến gần 8 triệu người
vào năm 2020. Mỗi 20 năm, tổng số
bịnh nhân sẽ bị nhân đôi. Người
phụ nữ bị nhiều hơn người nam, có
lẻ do phụ nữ sống thọ hơn người
nam.
Bịnh này gây ra rất nhiều căng thẳng
tinh thần và thể xác cho thân nhân. Khi
bịnh càng nặng th́ thời gian chăm sóc càng tăng.
Đa số thân nhân là những người có
tuổi hoặc phải đi làm, cho nên gánh nặng rất
nhiều. Thống kê cho thấy những
người chăm sóc bịnh nhân than phiền rằng họ
không có thời giờ cho chính họ và một số
lớn có những dấu hiệu của bịnh trầm
cảm. Nói chung, trung b́nh hễ có 4
triệu người bịnh Alzheimer th́ ta có ít nhứt 4
đến 8 triệu người chăm sóc bị căng
thẳng tinh thần.
Bịnh Alzheimer là bịnh suy thoái
thần kinh (neurodegenerative)
Bịnh lú
lẫn (dementia) là cái tên chung để gọi nhiều
căn bịnh khác nhau, trong đó có bịnh Alzheimer
chiếm khoảng 65% tổng số bịnh lú lẫn. Ngoài
bịnh Alzheimer ra c̣n có các bịnh lú lẫn do tai biến mạch máu năo (vascular dementia), bịnh
lú lẫn đi đôi với bịnh Parkinson (run tay chân)
gọi là Lewy body Dementia, bịnh nhiễm vi khuẩn năo (khi
ăn nhằm thịt ḅ điên) c̣n gọi là Creuzfeldt-Jakob
disease. Ở vascular dementia vùng năo bộ bị
thương tổn tương đối cố
định, c̣n ở bịnh Alzheimer các tế bào năo
dần dần bị chết đi và loang ra nhiều vùng
khác ở năo (neurodegenerative). V́ thế bịnh Alzheimer
trên lâm sàng được coi là một hội chứng
với những triệu chứng thay đổi theo thời gian.
Làm cách nào để
chẩn đoán bịnh Alzheimer?
V́ năo bộ
bị đóng kín trong hộp xương sọ nên ta không
thể lấy mẫu biopsy lúc bịnh nhân đang sống
được mà chỉ dựa trên những triệu
chứng lâm sàng để chẩn bịnh. Gần
đây cách chụp h́nh năo bộ ngày càng chính xác (fMRI) nên trong
tương lai có thể dùng cách này dễ chẩn bịnh.
Hiện nay ta vẩn cần phối hợp triệu
chứng lâm sàng với h́nh năo bộ v́ các khoa học gia
chưa t́m ra một hệ thống để tiêu chuẩn
hóa (standardize) các kết quả chụp h́nh năo bộ.
Đại khái kết quả chụp h́nh cho ta
thấy nhóm tế bào gọi là hippocampus bị suy thoái
trước nhất gây ra triệu chứng đầu tiên
của bịnh Alzheimer là mất trí nhớ ngắn hạn,
không nhớ được những ǵ mới học
hỏi. Kết quả PET scan cho ta thấy thùy vỏ
năo phía màng tang (temporal lobe) ở bịnh nhân Alzheimer hoạt
động chậm lại (vùng lạnh, màu xanh, ít hoạt
động) thể hiện qua sự suy thoái về ngôn
ngữ và làm tư tưởng ít mạch lạc. Vùng màng
tang là vùng chuyên về tiếp nối hay liên kết
(association). Khi bịnh lan sang thùy vỏ
năo phía trán (frontal lobe) th́ sự suy xét quyết định
và tánh t́nh của bịnh nhân bị ảnh hưởng. Khi
bịnh lan sâu xuống ảnh
hưởng những mạch thần kinh của hệ
thống bán cầu (limbic system) th́ bịnh nhân sẽ có
những triệu chứng bịnh tâm thần như nói lấp
bắp một ḿnh, có ảo thính (auditory hallucination) hay
ảo thị (visual hallucination).
Theo hội
đồng các chuyên gia tâm thần (các tác giả quyển
sách chẩn bịnh DSM IV) th́ bịnh Alzheimer
được chẩn đoán khi bịnh nhân bị
mất trí nhớ kèm theo một hay nhiều triệu
chứng sau đây: ngôn ngữ suy thoái (aphasia), mất h́nh
ảnh hay khái niệm sau hành động (apraxia), không
nhận ra (agnosia), và suy thoái về sự phán quyết
(executive function). Những triệu chứng
trên tạo những thay đổi rơ rệt trong
đời sống hàng ngày của bịnh nhân từ
mức độ cao rơi xuống mức độ thấp
hơn.
Bịnh nhân bị suy thoái ngôn ngữ thoạt
đầu nói chuyện ngập ngừng v́ cố gắng
t́m những từ ngữ để diễn tả ư
muốn ḿnh. Khi nặng hơn th́ hay dùng chữ “cái
ấy” để thế vào những từ ngữ ḿnh không
t́m ra được. Tư tưởng bắt đầu
thiếu mạch lạc, nói ṿng vo tam
quốc. Vào giai đoạn này bịnh nhân cũng bắt
đầu nghe mà không hiểu nhiều (receptive aphasia) v́
sự phối hợp ngôn ngữ trong đầu bị
mất dần (disrupted thinking association). Bịnh
nhân có một câu mà hỏi đi hỏi lại cả
chục lần mới hiểu.
Apraxia
ảnh hưởng đến sinh hoạt vệ sinh
căn bản hàng ngày. Bịnh nhân có thể
thực hiện những động tác riêng biệt
nhưng mất khả năng kết hợp những
động tác này thành một chuỗi động tác
để thực hiện một công việc nào đó v́
họ mất cái h́nh ảnh liên kết các động tác
đó lại. Thí dụ như ta bảo
bịnh nhân chải đầu, người bịnh cầm
cây lược mà không biết phải làm ǵ sau đó v́ cái
h́nh ảnh chải đầu không c̣n nửa. Khi ta chải đầu ta th́ bịnh nhân bắt
chước làm được.
Người
bịnh bị agnosia mất khả năng nhận ra bà con
hay bạn bè và khi nặng không c̣n nhận ra những
người gần gũi hàng ngày
sống với ḿnh như vợ con. Người
bịnh dễ bị lạc đường v́ không
nhận ra những cảnh vật quen thuộc để
lần ṃ về nhà. Những
người bị bịnh nhẹ th́ thường đi
lạc khi chiều tối v́ độ nhậy với
cảnh vật quen thuộc ít đi.
Các bác sĩ c̣n dùng Mini Mental State Examination, gồm
30 câu hỏi. Bịnh nhân trả lời đúng
dưới 10 câu th́ thuộc loại bịnh nặng,
giữa 10 và 20 thuộc loại bịnh trung b́nh và 25- 20
thuộc loại bịnh nhẹ. Tuy nhiên test này không chính xác
lắm, phải dựa trên kết quả lâm sàng và
những chi tiết của thân nhân đưa ra so sánh cách
sinh hoạt tri thức của bịnh nhân vài năm về
trước so với bây giờ mới chẩn đoán
được bịnh. Thí dụ
người lo âu trả lời nhanh và sai sẽ bị
mất điểm, người bị trầm cảm không
tha thiết, không cố gắng, suy nghĩ chậm
chạp, không tập trung tư tưởng được
sẽ bị mất điểm. Người
có tŕnh độ học vấn cao như giáo sư toán
học chẳng hạn sẽ có kết quả b́nh
thường mặc dù người đó bị bịnh
Alzheimer giai đoạn đầu. V́ thế ta không nên hoàn
toàn dựa trên số điểm mà chẩn bịnh.
Nguyên nhân bịnh Alzheimer
Hiện thời chưa ai biết rơ
được nguồn gốc của bịnh này.
Ở thượng nguồn của bịnh có thể do ít
nhứt 4 genes gây ra: Gene làm ra chất tiền amyloid (amyloid
precursor gene), gene Apolipoprotein E4, và genes presenilin 1 và 2. Biến
dị ở nhiễm sắc thể 1, 12,14,
19 và 21 được t́m thấy ở bịnh nhân Alzheimer
mà không có ở người không bịnh. Biến
dị ở nhiễm sắc thể 1 và 14 được
t́m thấy gần như phân nửa những người
có bịnh Alzheimer trong lúc tuổi c̣n trẻ. Người có cả hai allele sẽ có đến
98% xác suất bị bịnh, một allele th́ 60%. Tuy nhiên khoảng 25% người không có gene vẫn
bị bịnh này. Người ta nghỉ các genes này
làm thay đổi protein trở thành dạng amiloid không ḥa
tan được và chính những chất này gây rối
loạn các tế bào thần kinh.
Ở
hạ nguồn của bịnh th́ ta t́m thấy chất
plaque và tangle cô động ở tế bào thần kinh. Hippocampus là nhóm tế bào thần kinh rất
nhậy cảm và mong manh. Khi plaques và tangles
động lại ở nhóm tế bào này làm chúng bị
hủy diệt trước nhứt. Nhóm này
giúp trí nhớ ngắn hạn có thể ví như Random Access
Memory (RAM) của computer. Khi RAM ít đi th́ các programs
của computer hoạt động chậm lại. Khi trí nhớ ngắn hạn ta ít đi th́ ta không
học được điều mới, học
trước quên sau. Tuy nhiên không phải chỉ riêng
bịnh Alzheimer ảnh hưởng hippocampus mà khi bị
stress nhiều quá, cơ thể tiết ra nhiều chất
glucocorticoid cũng làm các tế bào hippocampus chết đi.
Hoạt động thể thao làm giảm chất này và làm
tăng chất Brain Derived Neurotrophic Factor (BDNF) giúp tế bào
thần kinh được khỏe mạnh.
Cách trị liệu.
Nhiều
nghiên cứu cho thấy chất plaque và tangle đă đóng
ở tế bào thần kinh ít nhứt cũng 5 năm
trước khi bịnh nhân có triệu chứng lâm sàng
bịnh Alzheimer nhẹ. Nhưng vào thời
điểm này ít bịnh nhân để ư cứ
tưởng là bịnh mất trí nhớ của tuổi già,
đến khi vài năm sau nữa khi hoạt động
tri thức (cognitive function) bắt đầu suy giảm
trầm trọng th́ mới đến bác sĩ để
trị liệu. Bịnh nhân Á châu sống chung với gia đ́nh được gia
đ́nh giúp đỡ nên giai đoạn đầu của
bịnh ít được phát giác, đến khi bịnh
trở thành nặng hơn làm bịnh nhân có những hành
động bất b́nh thường mới dẫn đi
khám bác sĩ. Lúc này, các tế bào thần kinh
đă chết khá nhiều nên việc trị liệu sẽ
kém hậu hỏa rất nhiều so với khi trị lúc
ban đầu.
Hiện nay
chưa có thuốc trị tận gốc bịnh Alzheimer có
nghĩa là ngăn chận genes không tạo thành các protein
“xấu” để duy tŕ sự sống tế bào. Ta
cũng chưa có loại thuốc làm tan plaque hay tangle. Ta
chỉ có thuốc điều chỉnh hai neurotransmitters
trong nhiều neurotransmitters ảnh hưởng đến
bịnh Alzheimer, đó là Acetylcholine và Glutamate. Những
loại thuộc đang có hiện nay chỉ làm tŕ trệ
sự tiến triển của bịnh chớ chưa
ngăn chận được sự suy thoái các tế bào
thần kinh.
Khi các tế bào hippocampus bị chết dần th́
không đủ để tiết ra chất Acetycholine.
Chất này giúp cho trí nhớ ngắn hạn
được củng cố. Thiếu chất này các
dữ kiện bịnh nhân thu thập
được sẽ không rơ nét bị mù mờ và không
giữ được lâu. Nhóm thuốc Anticholinesterase
được dùng để tăng lượng
Acetylcholine. Nhóm này bám vào men (enzyme) acetylcholinesterase ngăn
chận men này phân ủy Acetylcholine để tăng
lượng Acetylcholine chung quanh các điểm tiếp
cận (synapse) của tế bào thần kinh. Nhóm
thuốc này gồm có Aricept, Exelon và Reminyl.
Khi các tế bào thần kinh bị hư hỏng
nhiều th́ chất glutamate bị ứ đọng
lại. Chất glutamate cũng đóng
vai tṛ quan trong trong sự h́nh thành trí nhớ. Những nghiên cứu gần đây cho thấy
rằng khi chất này bị ứ đọng nhiều
sẽ kích thích quá đáng các NMDA (N-Methyl-D-Aspartate) receptors.
Khi các receptors này bị kích thích nhiều chúng
sẽ mở đường cho quá nhiều Calcium vào
tế bào thần kinh và sau đó làm tế bào thần kinh
bị hư hỏng thêm nửa. Ngoài ra
nó tạo nhiều “noise” (có thể so sánh như cái dĩa
bị rè, làm mất âm thanh chính gốc) ảnh hưởng
xấu đến các xung động thần kinh. Thuốc Namenda có tác dụng điều chỉnh
chất glutamate làm xung động thần kinh hoàng hảo
hơn. Có thể so sánh Nemanda với Dolby
system, lộc ra những tiếng rè làm âm thanh rơ nét hơn.
Nghiên cứu cho thấy khi kết hợp hai nhóm
thuốc này với nhau, như Aricept + Nemanda th́ kết
quả tốt hơn là chỉ dùng một trong hai chất
riêng biệt.
Tại sao cần phát
hiện và trị liệu bịnh Alzheimer sớm?
Hiện nay ta chưa có thuốc để trị
bịnh này tận gốc như đă đề cặp
ở phần trên. Khi ta chẩn bịnh
sớm th́ lúc đó tế bào năo và các mạch (circuits)
thần kinh tương đối c̣n nguyên vẹn nên
sự hiệu nghiệm (efficacy) của thuốc nhiều hơn.
Khi các tế bào mất nhiều, lan ra
nhiều vùng khác nhau (lúc đó bịnh nhân bắt
đầu có hành động bất b́nh thường) th́
việc trị liệu khó khăn hơn rất nhiều và
hiệu nghiệm lại ít đi. Nói về
sinh hoạt bịnh nhân, khi trị sớm ta có thể giúp
bịnh nhân duy tŕ cuộc sống tự lập, c̣n khi
trị trễ quá th́ bịnh nhân càng bị lệ thuộc nhiều
vào gia đ́nh. Như thế tạo
rất nhiều căng thẳng cho gia đ́nh. Người Á châu chúng ta v́ ḷng hiếu thảo
muốn nuôi dưỡng cha mẹ già tại nhà, nếu
trị không sớm th́ ta phải đương đầu
với sự xót xa đưa cha mẹ vào viện
dưỡng lăo v́ ta không c̣n khả năng chăm sóc
tại nhà. V́ thế khi một bác sĩ
trị bịnh Alzheimer th́ người đó gián tiếp
trị luôn sự căng thẳng của gia đ́nh
bịnh nhân.