Tản mạn về bài thơ Bạc Tần Hoài của thi sỹ Đỗ Mục
Đỗ Mục là một thi sỹ đời Đường vào thế kỷ thứ chín. Ông làm nhiều bài thơ trong đó có bài « Bạc Tần Hoài » (Đỗ bến Tần Hoài). Bài thơ của ông tả lại một đêm mùa đông thi sỹ đậu thuyền bên một bến sông Tần Hoài. Một đêm có trăng rọi xuống bờ cát, có khói sương phủ trùm làn nước lạnh mùa đông. Mùa đông vì Đỗ Mục viết chữ « Hàn » trong câu thơ thứ nhất. Trăng rọi bờ cát nhưng chắc trăng mờ ảo vì còn có khói sương. Thi sỹ nhìn thấy gần bờ sông có một quán rượu và nghe tiếng hát bài « Hậu Đình Hoa ». Thi sỹ trách người « Thương Nữ » đã không biết đến cái nhục mất nước mà còn ở đấy ca hát « Hậu Đình Hoa ». Sông Tần Hoài là một phụ lưu ở hữu ngạn thuộc hạ lưu sông Dương Tử (Trường giang). Sông Tần Hoài dài 110 Km, phần lớn chảy qua thành phố Nam Kinh và được coi là con sông huyết mạch tại đây (1). Nội Dung của bài thơ và bốn bản dịch sang tiếng Việt sau đây đã được trích ra từ trang WEB « thivien.net » (2).
Bạc Tần Hoài
Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.
Dịch nghĩa
Khói lan toả trên nước lạnh, ánh nguyệt lan trên cát
Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu
Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước
Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Nước lồng khói toả, cát trăng pha,
Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia.
Con hát biết chi hờn mất nước,
Cách sông còn hát “Hậu đình hoa”.
Bản dịch của Trần Trọng San
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát,
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát “Hậu đình hoa”.
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát,
Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia.
Gái ca đâu nghĩ nước nhà,
Cách sông vẫn hát khúc ca “Hậu đình”.
Bài hát “Hậu Đình Hoa“ được sáng tác vào thế kỷ thứ sáu, cuối thời Nam-Bắc triều bên Tàu. Bắc triều dưới thời nhà Tuỳ và Nam triều dưới thời vị vua cuối cùng nhà Trần, tức Trần Hậu Chủ. “Hậu Đình Hoa“ là bài hát “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa” do Trần Hậu Chủ sáng tác (3).
Trần Hậu Chủ có hai người thiếp là Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân. Nhà Vua không màng việc triều chính chỉ đam mê tửu sắc. Vua cho xây ba cung thông nhau là các cung Lâm Xuân, Ỷ Kết và Vọng Tiên, trang hoàng thật lộng lẫy. Vua ở cung Lâm Xuân. Người thiếp thứ nhất Trương Lệ Hoa ở cung Ỷ Kết và Khổng Quý Tân ở cung Vọng Tiên. Vua suốt ngày ăn chơi với mỹ nữ, làm thơ xướng hoạ, đặt ra nhiều khúc nhạc cho cả ngàn mỹ nữ học hát. Ngày nay bài hát Hậu Đình Hoa được coi là một âm điệu đưa đến sự sụp đổ của đất nước (3). Quân của vua Bắc triều Tuỳ Văn Đế đánh vào tới kinh đô nhà Trần. Trần Hậu Chủ thoát thân bằng cách dắt Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân xuống giếng trốn, nhưng cuối cùng cũng bị quân nhà Tuỳ bắt. Thời đại Nam Bắc Triều chấm dứt từ đây nhường chỗ cho thời đại nhà Tuỳ (4).
Các bản dịch sang tiếng Việt mà người viết đã có dịp đọc được đều dịch “Thương nữ” ở đầu cầu thứ ba thành “Cô gái”, “Con hát”, “Ả đào” hay “Gái ca”, v.v. Vậy nếu đúng theo ý nghĩa này thì tại sao Đỗ Mục lại không viết “Ca thủ”, “Ca nương”, “Ca nữ” hay “Ca nhi” thay vì “Thương nữ” ?
Tham khảo:
Hay lắm Vĩnh.
Cảm ơn nha.