VN Lịch sử trường thi – Phần 1
VIỆT NAM LỊCH SỬ TRƯỜNG THI – PHẦN 1
Việt Nam ở Đông Nam châu Á,
Nằm ven bờ biển cả mênh mông
Đẹp thay một dãy non sông.
Địa linh nhân kiệt, con Rồng cháu Tiên.
Đất nước gồm ba miền tiếp nối,
Bắc Trung Nam thay đổi cảnh quan.
Bắc phần vùng núi bạt ngàn,
Đỉnh cao mây phủ dãy Hoàng Liên Sơn
Rừng mênh mông xanh rờn cổ thụ,
Sống quây quần cầm thú muôn loài, (0010)
Chim kêu vượn hú ngân dài,
Xa xa tiếng thác vọng hoài triền miên.
Dưới mặt đất tài nguyên khôn tả,
Than lộ thiên Cẩm Phả, Hòn Gay.
Hạ Long phong cảnh đẹp thay,
Làm cho du khách ngất ngây cảm tình.
Vào Trung phần cảnh xinh cũng lắm,
Dãy Trường Sơn vực thắm núi cao.
Khắp nơi thác đổ ào ào,
Mây vờn đỉnh núi, gió gào rừng cây. (0020)
Bờ biển đẹp trải dài cùng khắp,
Mặt biển Đông thẳng tắp chân trời.
Xa xa thấp thoáng ngoài khơi,
Có hai quần đảo muôn đời của ta.
Hoàng Sa với Trường Sa yêu quí,
Thấm máu đào chiến sĩ anh linh.
Tổ tiên để lại cho mình,
Ra công gìn giữ trọn tình tiền nhân.
Đây đồng bằng Nam phần vựa lúa,
Lương thực nầy là của dân ta. (0030)
Đồng Nai dẫn nước gần xa,
Cửu Long bồi đắp phù sa không ngừng.
Ghe thuyền chèo tưng bừng ngang dọc,
Thêm Sài gòn hòn ngọc Viễn Đông.
Đất nầy là của giống dòng,
Nguyện đem thân xác hiến cùng giang san.
Cà Mau đến Nam Quan mọi chỗ,
Máu tiền nhân đã đổ biêt bao.
Bốn ngàn năm thục tự hào,
Từ ngày mở nước công lao ngút trời. (0040)
Giống Rồng Tiên sáng ngời nguồn gốc.
Họ Hồng Bàng chủng tộc Nam phương.
Vua đầu gọi Kinh Dương Vương.
Cùng bà Long Nữ nương nương kết tình.
Con đầu tiên chính danh nối nghiệp,
Lạc Long quân lãnh tiếp cơ đồ.
Lạc Long gá nghĩa Âu Cơ,
Ba năm mang nặng đến giờ khai hoa.
Một trăm con sinh ra cùng lượt
Năm mươi người thì được lên non. (0050)
Theo cha còn lại số con,
Xuống miền bờ biển sống còn lập thân.
Văn lang quốc Lạc Long cai trị,
Truyền cho con chính thị Hùng Vương.
Tên vua không đổi lạ thường,
Hai ngàn năm lẻ mọi phương phục tùng.
Mười tám đời vua Hùng bình trị
Chọn kinh đô định vị Phong Châu.
Văn quan thì gọi lạc hầu,
Võ quan, lạc tướng cầm đầu ba quân. (0060)
Quan lang gọi chính thân hoàng tử,
Mị nương là nhi nữ công nương.
Một thời tự chủ tự cường,
Từ vua cho chí dân thường âu ca.
Còn truyền lại vài ba câu chuyện,
Chuyện người dân đi biển vẽ mình,
Cho loài thủy quái hoảng kinh,
Giúp dân ngư phủ an ninh hành nghề.
Năm đời vua yên bề thịnh trị,
Đến đời sau thì bị can qua. (0070)
Giặc Ân cướp của đốt nhà,
Vua truyền tìm kiếm ai là cứu tinh.
Sứ giả vội về kinh trình tấu,
Phù Đổng thôn có cậu nhi đồng,
Lớn lên cười nói đều không,
Bỗng xin sứ giả lập công trận tiền.
Đòi nhà vua cấp liền ngựa sắt
Áo giáp xin để mặc che thân.
Vua nghe chẳng chút ngại ngần,
Truyền làm cho đủ, ân cần trao tay. (0080)
Bé con bỗng vươn vai đứng thẳng,
Tướng nhà trời thật chẳng khác chi.
Nhảy lên ngựa sắt liền phi,
Xông vào quân giặc tức thì thắng ngay.
Giặc tan rồi chàng bay lên núi,
Ngọn Sóc Sơn khuất cuối tầng mây.
Tướng trời đã phái xuống đây,
Làm xong nhiệm vụ thì bay về trời
Vua Hùng truyền lập nơi thờ cúng,
Và phong là Phù Đổng Thiên vương. (0090)
Hằng năm nghi ngút khói hương,
Hội đền Thánh Gióng thôn phường vui chung.
Kể đến đời vua Hùng mười tám,
Sinh ra con mặt thắm da ngà.
Đẹp làm cá lặn chim sa,
Mỵ Nương dáng vẻ tiên nga giáng trần.
Tuổi cập kê xa gần nức tiếng,
Vua cha truyền lệnh tuyển rể hiền.
Công tôn vương tử khắp miền,
Chẳng ai xứng với nàng tiên cõi trần. (0100)
Rồi một hôm hai thần xuất hiện,
Dáng hiên ngang sắc diện oai linh.
Sơn Tinh cùng với Thủy Tinh,
Ngang nhau quyền phép, thật tình khó phân.
Vua cha phán hai thần lui bước,
Sáng ngày mai đến trước bệ rồng.
Ai vào sớm nhất được phong
Chức danh phò mã, làm chồng Mỵ Nương.
Đêm vừa tàn, vầng dương chưa hé.
Sơn Tinh đem sính lễ đến ngay. (0110)
Mỵ Nương e lệ trao tay,
Mặt tiên rạng rỡ trong ngày vu quy.
Đoàn xe loan ra đi vừa khuất,
Thủy Tinh mang lễ vật vào chầu.
Thôi rồi, người đẹp còn dâu,
Đùng đùng nổi giận, thù sâu phen nầy.
Kéo binh tướng đi ngay vội vã,
Tìm Sơn Tinh để trả mối thù.
Miệng hô một tiếng thần phù,
Mây đen cuồn cuộn âm u đầy trời. (0120)
Mưa ào ào nước rơi khắp chốn,
Nước biển dâng cuồn cuộn kinh hồn.
Quyết tâm làm ngập núi non,
Sơn Tinh sẽ biến mồi ngon thủy kình.
Nhưng hỡi ơi Thủy Tinh đại bại,
Nước dâng cao núi lại cao lên.
Sơn Tinh đứng ở phía trên,
Đưa tay tung chưởng sét liền ầm vang.
Thủy tinh lòng hoang mang sợ hãi.
Rút binh về tránh hại cho xong. (0130)
Mối thù chưa dứt trong lòng,
Mỗi năm dâng nước tràn sông ngập đồng.
Dân sống ven sông Hồng khổ sở,
Cũng chỉ vì món nợ tình duyên.
Chẳng qua là chuyện khẩu truyền,
Người xưa thích có thần tiên trong đời.
Lúc bấy giờ nơi nơi an lạc,
Lo vui chơi cờ bạc rượu trà.
Triều đình thì chuộng xa hoa,
Binh nhung trễ nãi, tiếng ca vang rền. (0140)
Có vua Thục nước bên dò biết,
Nên xuất binh chí quyết đoạt quyền.
Thành trì thất thủ liền liền,
Quân vừa thấy địch tự nhiên đầu hàng.
Triều đại đời Hồng Bàng kết thúc,
Được giang san, nhà Thục lên ngôi.
Hùng vương thất trận rối bời,
Gieo mình xuống giếng, xong đời quân vương.
Thục Phán đem kỷ cương chỉnh đốn,
Chọn Phong Khê làm chốn kinh kỳ. (0150)
Văn Lang tên nước bỏ đi,
Thay bằng Âu lạc, tiếc gì tên xưa.
Rồi hiệu vua cũng vừa xác định,
An Dương Vương đã chính danh rồi.
Muốn truyền uy khắp nơi nơi,
Loa thành xây dựng để đời biết tên.
Thành khởi xây quỷ lên quấy phá,
Ngày thi công đêm hóa điêu tàn.
Thục Vương vội vã lập đàn,
Lễ dâng cầu khấn cho tan họa nầy. (0160)
Lòng thành tâm có ngay kết quả,
Thần kim quy giáng hạ cõi trần.
Quỷ ma hoảng sợ uy thần,
Một đêm trốn hết xa gần được yên.
Xây Loa thành thì liền xong việc,
Thần tặng vua một chiếc nỏ thần.
Buông tên chỉ với một lần,
Thì muôn giặc phải trăm phần ra ma.
Vào thời đó Triệu Đà phương bắc,
Muốn chinh Nam sợ mắc nỏ thần. (0170)
Gian hùng tìm kế kết thân,
Cho con Trọng Thủy dự phần mưu sâu.
Cưới công chúa Mỵ Châu làm vợ,
Đạo phu thê ăn ở thuận hòa.
Nàng rằng nếu có can qua,
Rải đường lông ngỗng để mà tìm nhau.
Sống bên nàng Mỵ Châu hiền phụ,
Nhưng lòng chàng, nhiệm vụ không quên.
Tâm bền mà chí cũng bền,
Lệnh cha thì phải đặt trên duyên tình. (0180)
Chiếc nỏ thần chàng rình trộm được.
Vội trốn về đất nước của mình.
Dâng cha chiếc nỏ thần linh,
Triệu Vương ra lệnh hưng binh tức thì.
An Dương Vương khinh khi địch thủ.
Có nỏ thần quá đủ thị uy.
Bây giờ nỏ mất lâm nguy.
Cha con một ngựa trốn đi suốt ngày.
Nàng ngồi sau nhớ ngay lời trước,
Cởi áo ra vài bước rải lông. (0190)
Mỵ Châu muốn nhắn với chồng,
Trốn đi, thiếp vẫn một lòng nhớ thương.
Đến bờ biển hết đường trốn chạy,
An Dương Vương khấn vái kim quy.
Thần linh xuất hiện tức thì,
Cho hay giặc đuổi chính vì Mỵ Châu.
Một nhát gươm thì đầu rơi xuống,
Vua quăng gươm nhắm hướng biển Đông.
Trầm mình tự tử là xong,
Giang san mất cả, mình rồng tiếc chi. (0200)
Trọng Thủy đến ôm ghì xác vợ.
Nước mắt tuôn nức nở thảm thương.
Đem về xin phép phụ vương,
Chôn rồi thiết lập miếu đường nghiêm trang.
Mọi việc đã đàng hoàng thu xếp,
Trọng Thủy bèn dứt kiếp phù sinh.
Nhảy ùm xuống giếng trầm mình.
Chết đi cho được trọn tình phu thê!