THU CHÍ

Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật
Phao trịch như thoa, hoán bất hồi.
Thiên lý xích thân vi khách cữu
Nhất đình hoàng diệp tống Thu lai.
Liêm thùy tiểu các, tây phong động
Tuyết ám cùng thôn, hiểu giác ai.
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.

NGUYỄN DU
( Thanh Hiên Tiền Hậu Tập )

CHÚ THÍCH :

PHAO TRỊCH NHƯ THOA : Gieo, ném nhanh như con thoi dệt cửi.
HOÁN BẤT HỒI :Kêu cũng không trở lại.
XÍCH THÂN : Tấm thân mấy thước .
VI CỮU KHÁCH : Làm khách ở nhà trọ mãi.
NHẤT ĐÌNH HOÀNG DIÊP : Một sân đầy lá vàng .
TỐNG : Đưa tiển, tặng biếu.
LIÊM THÙY : Rèm buông xuống .
TIỂU CÁC : Gác nhỏ .
TÂY PHONG ĐỘNG : Gió Tây thổi.
TUYẾT ÁM : Tuyết phủ .
CÙNG THÔN : Thôn xa.
HIỂU : Cho biết
GIÁC : Sừng dùng làm cái " Tù Và" để thổi,gọi là tiếng Ốc .
LƯU QUANG : Ngày tháng trôi đi.
THÔI : Giục .
U TỨ : Tâm sự sâu kíin .
VỊ TẰNG : Chưa từng .


BẦI DỊCH:


1. Nguyễn Tam:

THU ĐẾN

Bốn mùa cảnh đẹp có là bao
Ngày tháng qua rồi, trở lại đâu !
Ngàn dặm trãi thân làm lữ khách
Một sân đầy lá báo mùa Thu.
Gió lay gác nhỏ rèm sương rủ
Tuyết phủ thôn xa tiếng ốc sầu.
Hiu hắt ngày trôi xui tóc trắng
Cả đời chưa gột hết buồn đau !

2. Nguyễn Thị Ánh Nga:

THU ĐẾN

Xuân hạ thu đông đẹp bao ngày
Thấm thoát qua đi những tháng dài
Đường xa vạn dậm thân cô lữ
Vàng sân đầy lá gió thu bay
Gác nhỏ buông rèm gió mơn man
Thôn xa ngời tuyết ốc rền vang
Muộn phiền trôi mãi theo năm tháng
Tâm tư chôn kín nỗi sầu mang

3. Nguyễn Văn Mão:

THU SANG

Cảnh đẹp bốn mùa được mấy ngày
Thoi đưa thấm thoát gọi không về
Phận trai ngàn dặm thân làm khách
Sân trải lá vàng cho lập Thu
Gác nhỏ buông rèm, gió lạnh thổi
Tù và báo sáng tuyết xa xa
Ngày qua lo nghĩ làm đầu bạc
U uất một đời sao được vơi

4. Lê Tấn Tài:

THU SANG

Ðất trời tươi thắm mấy ngày
Tháng năm hun hút , trải dài thinh không
Tấm thân cô lữ phiêu bồng
Ðầy sân lá rụng , thu vàng heo mây
Rèm buông gác nhỏ gió tây
Trơ vơ ốc vọng , tuyết bay thôn buồn
Thời gian tóc đã phơi sương
Vọng niềm u uẩn , sầu tuôn nghẹn lời